Tăng cường công tác Marketing tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương-Khu vực II Hai Bà Trưng

LỜI MỞ ĐẦU1 CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI3 1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.3 1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng Thương mại.3 1.1.2. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại4 1.2. KHÁI QUÁT VỀ MARKETING NGÂN HÀNG.10 1.2.1. Khái niệm về Marketing Ngân hàng.10 1.2.2. Vai trò của Marketing Ngân hàng.11 1.2.3. Đặc điểm của Marketing Ngân hàng.13 1.3. NỘI DUNG CÔNG TÁC MARKETING NGÂN HÀNG.14 1.3.1. Nghiên cứu thị trường trong hoạt động của Ngân hàng.15 1.3.2. Chiến lược Marketing Ngân hàng.22 1.3.3. Các biện pháp Marketing Ngân hàng.26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC MARKETING NGÂN HÀNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG- KV II HAI BÀ TRƯNG30 2.1 KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG- KV II HAI BÀ TRƯNG30 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương- KV II Hai Bà Trưng30 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương- KV II Hai Bà Trưng.32 2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MARKETING TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KV II-HAI BÀ TRƯNG.39 2.2.1. Tình hình thực hiện phát triển các dịch vụ của Chi nhánh Ngân hàng Công thương - KVII Hai Bà Trưng40 2.2.2. Tình hình thực hiện chính sách giá cả tại chi nhánh Ngân hàng công thương Việt Nam -KVII Hai Bà Trưng.41 2.2.3. Tình hình thực hiện phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ chi nhánh Ngân hàng công thương -KV II Hai Bà Trưng.43 2.2.4. Tình hình thực hiện xúc tiến trong cung ứng dịch vụ tại chi nhánh Ngân hàng công thương KV II-Hai Bà Trưng.44 2.2.5. Tình hình thực hiện nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên tại chi nhánh Ngân hàng công thương KV II-Hai Bà Trưng.46 2.2.6.Tình hình cải tiến dịch vụ cung ứng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương KV II-Hai Bà Trưng47 2.2.7. Tình hình thực hiện việc nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương- KVII Hai Bà Trưng.48 2.2.8. Tình hình thực hiện việc phát triển mối quan hệ nội bộ trong chi nhánh Ngân hàng Công thương-KVII Hai Bà Trưng.49 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC MARKETING TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KV II-HAI BÀ TRƯNG.50 3.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC MARKETING TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KVII-HAI BÀ TRƯNG.51 3.1.1. Hoàn thiện hệ thống thông tin Marketing tại chi nhánh Ngân hàng công thương KV II-Hai Bà Trưng.51 3.1.2. Nâng cao trình độ cán bộ và ứng dụng tốt công nghệ thông tin áp dụng trong hoạt động Ngân hàng.51 3.1.3. Thực hiện chính sách lãi suất và phí dịch vụ cạnh tranh.52 3.1.4. Thực hiện cải tiến quá trình cung ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo tiện ích tối đa cho khách hàng.53 3.1.5. Tăng cường thực hiện các hoạt động xúc tiến hướng tới khách hàng mục tiêu.54 3.1.6. Thực hiện việc mở rộng các dịch vụ và thị trường cung ứng cho khách hàng.57 3.1.7. Các giải pháp hỗ trợ khác.59 KẾT LUẬN61

docx69 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2410 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường công tác Marketing tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương-Khu vực II Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các Ngân hàng Thương mại quốc doanh được hình thành để đáp ứng những yêu cầu thực tiễn. Trong quá trình hình thành và phát triển đó thì hàng loạt những vấn đề mới, khó khăn, cơ hội và thách thức đến với Ngân hàng đòi hỏi sự cố gắng không ngừng mới có thể duy trì hoạt động của mình. Để thích ứng với môi trường cạnh tranh khốc liệt này các Ngân hàng luôn tìm tòi sáng tạo phải đáp ứng chính sách mới của các Ngân hàng trên thế giới trên cơ sở nền tảng công nghệ thông tin. Đồng thời, Ngân hàng chủ động nghiên cứu và phát triển thị trường, tìm hiểu tâm lý, thói quen tập quán của dân cư, trình độ phát triển của nền kinh tế, tìm kiếm khách hàng, nhu cầu của khách hàng và những chính sách, chiến lược được xây dựng.... Từ đó xem khả năng đáp ứng của mình đến đâu, bằng cách nào và phương pháp ra sao.... Một loạt những vấn đề liên quan trên mà Ngân hàng phải làm được gọi là chiến lược Marketing. Lý thuyết kinh doanh hiện đại đã thừa nhận rằng Marketing là công cụ hữu hiệu đối với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, không thể thiếu được nếu muốn tồn tại và phát triển. Có thể nói, các NHTM đều ý thức được tầm quan trọng của công tác Marketing trong hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy công cụ này đã và đang áp dụng trong Ngân hàng cũng như các chi nhánh của Ngân hàng đó, hơn thế nữa nó lại càng chuyên sâu hơn, có chiến lược, quy trình hay các bước thực hiện và phương án, giải pháp cho các bước đó. Thực tế trong thời gian qua, từ năm 2000 trở lại đây, nhờ áp dụng Marketing trong hoạt động của mình mà các NHTM đã thu được kết quả đáng mừng như: số lượng khách hàng tăng, khách hàng vay vốn sử dụng có hiệu quả hơn, công tác thu nợ đa số hoàn thành đúng thời hạn.... Bên cạnh đó huy động vốn cũng tăng lên đáng kể. Như vậy, tầm quan trọng mà Marketing áp dụng vào hoạt động kinh doanh với Ngân hàng thực sự là rất cần thiết, nó quyết định không nhỏ tới sự thành bại của Ngân hàng trong nền kinh tế hội nhập và mở cửa. Nhưng đây cũng là một thách thức lớn yêu cầu các Ngân hàng phải nỗ lực rất nhiều bởi vì các NHTM Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế trong năng lực kinh doanh và khả năng cạnh tranh. Để giải quyết tốt vấn đề này, các NHTM cần phát huy hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng Marketing vào hoạt động kinh doanh. Có làm được như vậy thì các NHTM mới tồn tại và phát triển bền vững. Từ tình hình chung trên, Ngân hàng Công thương - KVII Hai Bà Trưng cũng hoạt động kinh doanh trong bối cảnh chung giống như mọi NHTM Việt Nam hiện nay. Công cụ Marketing đã được chi nhánh áp dụng trong hoạt động của mình song chưa hiệu quả và kết quả đat được còn nhiều khiêm tốn, cần tiếp tục phát huy và hoàn thiện hơn nữa để nó trở thành một công cụ đắc lực trong hoạt động kinh doanh của mình. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương-KVII Hai Bà Trưng và bằng kiến thức tích luỹ trong quá trình học tập tại Khoa Ngân hàng - Tài chính Trường ĐHKTQD cùng với mong muốn ứng dụng thành công Marketing và tăng cường công tác này để hoạt động của chi nhánh có hiệu quả hơn. Em đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường công tác Marketing tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương-KV II Hai Bà Trưng” để nghiên cứu. Kết cấu chuyên đề thực tập gồm 3 chương: Chương1: Các vấn đề cơ bản về Marketing trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác Marketing Ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương-KVII Hai Bà Trưng. Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác Marketing tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương-KVII Hai Bà Trưng. Trong quá trình làm chuyên đề, do trình độ hiểu biết cũng như kinh nghiệm thực tế còn ít nên bài viết chắc chắn còn mắc nhiều lỗi cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các cô chú tại chi nhánh Ngân hàng công thương KV II-Hai Bà Trưng để bài viết được hoàn thiện hơn. Để có được kết quả này, em xin chân thành cảm ơn đến PGS.TS Lê Đức Lữ-Khoa Ngân hàng Tài chính cũng như các cô chú trong Chi nhánh Ngân hàng Công thương-KVII Hai Bà Trưng đã giúp đỡ em tìm hiểu về thực tế và có được số liệu minh hoạ cho chuyên đề của mình. CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng chủ thể trong nền kinh tế nói riêng. Hệ thống Ngân hàng là thành phần không thể thiếu được trong nền kinh tế của mỗi Quốc gia. Để thấy rõ về vai trò của Ngân hàng chúng ta cần tìm hiểu Ngân hàng thương mại là gì? Về mặt lý luận, có rất nhiều quan điểm khác nhau về Ngân hàng thương mại được sử dụng. Nhưng khái niệm được thừa nhận rộng rãi và thường xuyên hiện nay là: Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay, đồng thời thực hiện toàn bộ các dịch vụ khác có liên quan. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: Ngân hàng Thương mại được hiểu là tổ chức kinh doah tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu, làm phương tiện thanh toán. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, một bộ phận hợp thành hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường, có chức năng dẫn vốn từ nơi có khả năng cung cấp vốn đến nơi có nhu cầu về vốn. Trong khi thực hienẹ vai trò trung gian vận chuyển vốn từ người cho vay sang người vay, các Ngân hàng thương mại đã tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, thanh toán bằng séc mà đặc biệt hơn cho nền kinh tế. Do đó, hoạt động của Ngân hàng thương mại gắn bói mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Trên thực tế ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại đặc biệt là các Ngân hàng thương mại quốc doanh đang thực hiện đồng thời các hoạt động của Ngân hàng thương mại và những hoạt động "bảo trợ" có tính chất xã hội của Chính phủ như cho vay phát triển doanh nghiệp Nhà nước, cho vay ưu đãi đối với một số đối tượng dân cư và thành phần kinh tế. Có thể coi Ngân hàng thực hiện các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận gửi, cho vay, đầu tư.. và thực hiện một số dịch vụ khác như thanh toán, môi giới, tư vấn... 1.1.2. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại Trước khi nghiên cứu các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại, ta xem xét bảng cân đối kế toán của ngân hàng; Bảng cân đối kế toán của Ngân hàng thương mại hay còn được gọi là báo cáo về trạng thái, liệt kê các tài sản và các loại nguồn vốn do ngân hàng nắm giữ hay đầu tư tại một thời điểm. Các Ngân hàng thương mại (NHTM ) về bản chất cũng là những doanh nghiệp kinh doanh nên bảng cân đối kế toán của nó cũng phải tuân theo nguyên tắc: Tài sản = Nguồn vốn (Nợ + Vốn chủ sở hữu) Dưới đây là kết cấu cơ bản của bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán Nguồn vốn  Tài sản   Huy động - Tiền gửi - Tiền vay Vốn chủ sở hữu Nguồn vốn khác  Ngân quỹ - Dự trữ bắt buộc - Dự trữ thanh toán Tài sản sinh lợi - Cho vay - Chứng khoán và đầu tư Các tài sản khác   Nhìn vào nội dung của bảng cân đối kế toán trên cho ta thấy đặc trưng trong hoạt động kinh doanh mà đối tượng chính là tiền tệ. Do đó các nghiệp vụ của NHTM về cơ bản bao gồm Nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có, nghiệp vụ trung gian. 1.1.2.1 Nghiệp vụ nợ Nghiệp vụ này giữ vai trò quan trọng đối với NHTM, bởi lẽ nó là cơ sở để Ngân hàng ra đời, tồn tại và phát triển. Hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt vì trên cơ sở nguồn vốn huy động được Ngân hàng mới có thể thực hiện được các nghiệp vụ sau này. Rủi ro trong hoạt động của NHTM là rất cao nên khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng phải chú ý tới cơ cấu hợp lý và trong biên độ cho phép. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ đem lại thu nhập, đồng thời đảm bảo được khả năng thanh toán khi có yêu cầu được một cơ cấu tài sản nợ cũng như cơ cấu tài sản hợp lý. Trước hết, nghiệp vụ tạo vốn tự có. Cũng như tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần có một số vốn ban đầu điều này cũng đúng với hoạt động của Ngân hàng.. tuỳ từng loại ngân hàng mà nghiệp vụ này được hình thành như thế nào: Vốn tự có có thể tạo ra từ nguồn ngân sách Nhà nước (nếu NHTM quốc doanh); từ việc bán cổ phần (nếu là Ngân hàng cổ phần); học từ các nguồn liên doanh, liên kết với các đơn vị khác... vốn tự có chiếm một phần quan trọng trong hoạt động của NHTM. Đây là điều kiện cần và đủ để các NHTM hoạt động và là tấm đệm gúp các NHTM lâm vào tình trạng khó khăn. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các NHTM không ngừng tăng quy mô nguồn vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn tự có bằng cách trích lập các quỹ thích hợp như: quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự trữ bảo toàn vốn... từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh của mình, uy tín của một NHTM phần lớn thể hiện qua quy mô vốn tự có. Bởi lẽ, khách hàng sẽ tín nhiệm NHTM nào có quy mô vốn lớn hơn với cách nghĩ rằng các NHTM có quy mô lớn sẽ đảm bảo độ àn toàn cao hơn. Thứ hai, nghiệp vụ huy động vốn Nguồn vốn huy động của ngân hàng gồm tài khoản tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ các chủ thể trong nền kinh tế. Tiền gửi giao dịch là tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có thể sử dụng với mục đích thanh toán và họ cũng có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Đây là nguồn vốn quan trọng của các NHTM, nó không những có khối lượng lớn mà là nguồn vốn có chi phí rẻ nhất vì mục đích của các tài khoản tiền gửi này không phải là lợi tức mà là sử dụng dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng hoặc để giữ được tính lỏng cao nhằm mục đích riêng. Tiền gửi tiết kiệm: là tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản không sử dụng để thanh toán, họ được hưởng thu nhập thông qua lãi suất. Nói chung, nguồn vốn này có chi phí cao hơn khoản tiền gửi giao dịch nhưng nó sẽ là nguồn vốn quan trọng, ổn định và đảm bảo cho các NHTM chủ động trong việc sử dụng vốn. Trong hoạt động huy động vốn ngân hàng căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng loại tiền gửi cũng như nhu cầu, tâm lý tiêu dùng của người dân, của các tổ chức kinh tế... để đưa ra các hình thức huy động khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Nghiệp vụ huy động được xác định bởi các thể chế, quy định về thời gian, về lãi suất, hình thức huy động khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Nghiệp vụ huy động được xác định bởi các thể chế quy định về thời gian, về lãi suất, hình thức chi trả và hình thức tài khoản. thông thường, các NHTM luôn tìm cách cải tiến các hình thức huy động đặc biệt là các hình thức gắn với lợi ích của người gửi tiền để tạo niềm tin đối với khách hàng. Thứ ba, hoạt động vay vốn: trong trường hợp nguồn tiền gửi từ khách hàng không đủ, các ngân hàng sẽ phải tiến hành đi vay, NHTM đi vay để đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Đây là nguồn vốn có chi phí đắt nhất trong các nguồn huy động của NHTM nhưng lại không thể thiếu được trong qúa trình kinh doanh. Hoạt động này giúp cho các NHTM chủ động trong qúa trình kinh doanh và trong việc đối phó với những khó khăn phát sinh. NHTM có thể đi vay từ NHNN hoặc từ cácTổ chức Tín dụng hay trên thị trường vốn ( như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu...), vay trên thị trường liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán , nhu cầu tín dụng của khách hàng... Ngày nay, vốn vay mượn đang trở thành bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM. Ngoài ra, các NHTM có thể nhận được vốn uỷ thác từ chính phủ, từ các tổ chức đầu tư quốc tế, các tổ chức nhân đạo... để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. 1.1.2.2. Nghiệp vụ có. Nghiệp vụ có hay còn gọi là hoạt động sử dụng vốn. Hoạt động này mang phần lớn lợi nhuận cho các NHTM. Kho thực hiện hoạt động này, các ngân hàng phải đảm bảo một cơ cấu tài sản hợp lý, nhằm đạt được mức lợi nhuận cao nhất, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng của mình. Để thực hiện được mục tiêu này, các NHTM cần phải có chính sách đầu tư, tín dụng thích hợp, kết hợp với quản lý tài sản và quản lý nguồn vốn, tuân thủ theo các quy định của pháp luật và sự hướng dẫn của NHNN, hoạt động này bao gồm: Trước hết, hoạt động ngân quỹ là hoạt động để đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cho khách hàng của NHTM. Trên bảng cân đối kế toán tài sản, kết quả của hoạt động này được thể hiện ở khoản mục dự trữ, có thể thấy hầu hết các tài sản dự trữ đều không sinh lời hoặc sinh lời rất thấp, nhưng bù lại nó có tính lỏng rất cao, điều đó rất cần thiết cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, là mối quan hệ với chủ thể quản lý: NHNN do thực hiện hoạt động ngân quỹ phải đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ do NHNN quy định đối với các NHTM nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ, quản lý hoạt động ngân hàng. Trong quản lý hoạt động của Ngân quỹ, các NHTM phải xác định được một cơ cấu, tỷ lệ dự trữ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh tình trạng ứ động vốn làm giảm hiệu quả hoạt động . Hai là, hoạt động cho vay cùng với hoạt động đầu tư, hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NHTM. Đây là hoạt động quan trọng nhất phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng là cho vay đối với nền kinh tế, thông qua đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, đi kèm với các khoản thu nhập cao là tính lỏng kém và rủi ro lớn. Vì vậy trong quản lý hoạt động cho vay cần xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của ngân hàng, tuân thủ các nguyên tắc về quản lý, quy trình nghiệp vụ tín dụng và triệt để tuân theo các quy định của pháp luật, của NHNN về chất lượng tín dụng cũng như là các quy định kiểm soát khác. Ba là, hoạt động đầu tư là nguồn thu nhập khá lớn, quan trọng thứ hai sau hoạt động cho vay. NHTM đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao (được coi là một khoản dự trữ thứ cấp của NHTM) hoặc đầu tư vào các chứng khoán có tính linh hoạt thấp hơn nhưng có kỳ hạn dài hơn để bù đắp lợi nhuận đem lại cao hơn khoan mục đầu tư trên bảng cân đối tài sản thể hiện kết quả hoạt động này. Trong hoạt động đầu tư, ngân hàng chủ động lựa chọn từ một loạt chứng khoán hiện có NHTM thực hiện hoạt động này nhằm mục tiêu đa dạng hoá lợi tức và trợ giúp về tính thanh khoản dự trữ thứ cấp. Các NHTM không thể cho vay hết các khoản vốn mà ngân hàng huy động về, bởi vì NHTM phải đa dạng hoá các khoản đầu tư tín dụng để giảm bớt rủi ro. Các rủi ro có thể có là: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất... muốn hạn chế được các loại rủi ro trên thì ngân hàng phải lựa chọn một danh mục đầu tư khác nhau với việc ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán có tính thanh khoản khác nhau. 1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian. Bên cạnh các hoạt động đầu tư, với mục tiêu đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, các ngân hàng tiến hành cung cấp các dịch vụ tiện ích về lĩnh vực tài chính, tiền tệ theo yêu cầu của khách hàng. Nghiệp vụ trung gian - hoạt động dịch vụ - đang là xu thế hiện đại của ngân hàng bởi vì nó hạn chế được thiệt hại do cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng, tính an toàn cao, tăng thu nhập cho ngân hàng, đồng thời dịchvụ này góp phần đáp ứng kịp thưòi với nhu cầu phát triển của nền kinh tế đặc biệt đối với việc quốc tế hoá và hội nhập. Hoạt động dịch vụ của NHTM cơ bản dựa trên hệ thống cơ sở vật chất hệ thống thông tin liên lạc sẵn có, phát huy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên ngân hàng. Ngày nay, hoạt động trung gian của ngân hàng gồm có một số dịch vụ cơ bản sau: Thứ nhất, hoạt động thanh toán là hoạt động trung gian quan trọng của các ngân hàng thương mại, nhờ hệ thống chi nhánh và mối quan hệ rộng khắp, các NHTM có thể tiếp cận với khách hàng của mình trong việc chi trả, thu nợ thông qua các dịch vụ uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu,...mà tốn ít thời gian và chi phí đi lại. Thứ hai, môi giới và đầu tư chứng khoán: các NHTM cung cấp dịch vụ này, khách hàng có cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra các công ty chứng khoán hay công ty môi giới chứng khoán. Thứ ba, dịch vụ tư vấn và uỷ thác: do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các NHTM có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanhnghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và các hoạt động tài chính của mình. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành , uỷ thác đầu tư... thậm chí các ngân hàng là người đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng qua đời. Bằng cách công bố tài sản bảo quản các giấy tờ có giá. Thứ tư, dịch vụ mua bán ngoại tệ- một trong những dịch vụ ngân hàng đứng ra mua bán loại tiền này lấy loại tiền khác phục vụ khách hàng và hưởng dịch vụ qua chênh lệch về giá. Trong thị trường tài chính hiện nay, mua bán ngoại tệ được các NHTM thực hiện thường xuyên với khối lượng lớn và tạo được uy tín với khách hàng vì Khách hàng tin tưởng các NHTM này hơn. Thứ năm, dịch vụ bảo lãnh: do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá, trang thiết bị, phát hành chứng khoán và vay vốn của các tổ chức tín dụng khác... Cuối cùng, dịch vụ bảo hiểm: từ nhiều năm nay, các NHTM đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán... NHTM cung cấp dịch vụ này nhằm phục vụ lợi ích tốt nhất cho khách hàng, tạo tâm lý yên tâm nhưng đồng thời lại mang về cho ngân hàng một khoản thu nhập nhờ chi phí dịch vụ này. Cả ba hoạt động là huy động vốn, sử dụng vốn và nghiệp vụ trung gian có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong tổng thể các hoạt động của ngân hàng thương mại, chúng có mối quan hệ qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Vì vậy, trong hoạt động của NHTM luôn phải xây dựng được kế hoạch, chiến lược tổng hợp có thể có sự phối hợp đồng bộ giữa các mặt hoạt động nhằm đạt hiệu quả cao nhất đối với lợi ích tối đa. Với sự thay đổi không ngừng của nền kinh tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự thay đổi trong tri thức loài người, ngân hàng đã và đang phát triển lên một tầm cao mới.. Ngân hàng không chỉ coi là "một tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi và trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền để cho vay" và trở thành một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục đích lợi nhuận an toàn và phát triển (theo Luật NHNNVN và Luật TCTD năm 1998) 1.2. KHÁI QUÁT VỀ MARKETING NGÂN HÀNG. 1.2.1. Khái niệm về Marketing Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lượng các ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh dó, các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng khác như: các công ty Bảo hiểm, Bưu điện và các Tổ chức Tài chính khác. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải nỗ lực rất nhiều không chỉ cạnh tranh với ngân hàng với nhau mà còn với cả bên nước ngoài. Muốn tồn tại và phát triển ngân hàng phải thực thi các giải pháp, các chính sách linh hoạt nhất để cung cấp các dịch vụ làm sao thoả mãn nhu cầu khách hàng, và đây là điều đòi hỏi các ngân hàng phải thực sự biết về Marketing. Marketing Ngân hàng cũng dựa trên cơ sở chung của Marketing căn bản nhưng lại có những nét đặc thù của lĩnh vực hoạt động ngân hàng với đối tác kinh doanh là tiền tệ. Khi thực hiện Marketing Ngân hàng cũng phải tuân thủ theo các đặc tính đó là: tính hệ thống, tính khoa học, sáng tạo, tính thực tiễn.. Hoạt động ngân hàng thực hiện dựa trên cơ sở niềm tin, ngân hàng cung cấp các dịch vụ hoàn hảo thì ngân hàng phải được tổ chức một cách khoa học, hợp lý tất cả các khâu trong quá trình cung ứng một dịch vụ nào
Luận văn liên quan