Thẩm quyền tư vấn của ICJ và quyền can thiệp của bên thú 3 theo quy chế của ICJ

Chủ thể yêu cầu tư vấn có thể đưa ra vấn đề. Nhưng những vấn đề này chỉ được tòa đồng ý tư vấn nếu vấn đề đó nằm trong phạm vi hoạt động của chủ thể yêu cầu tư vấn. Từ 1946 ICJ đã đưa ra 24 ý kiến tư vấn liên quan đến việc kết nạp các thành viên của LHQ, bồithường cho những tổn thất, những vi phạm quyền lợi trong các ban các vụ của LHQ, mối quan hệ pháp lý giữa miền nam tây phi ( namibia) và miền tây sahara, những phán quyết được đưa ra bởi tòa án hành chính quốc tế, chi trảcho những hoạt động của LHQ, tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân.

pdf21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thẩm quyền tư vấn của ICJ và quyền can thiệp của bên thú 3 theo quy chế của ICJ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BÀI TẬP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÓM 2 THẨM QUYỀN TƯ VẤN CỦA ICJ VÀ QUYỀN CAN THIỆP CỦA BÊN THÚ 3 THEO QUY CHẾ CỦA ICJ Các thành viên thực hiện: Phạm Hiền Trang H33( nhóm trưởng) Nguyễn Hồng Vân H33 Lê Thị Hải Ninh H33 Trần Thị Thùy Vy D33 Nguyễn Thanh Hoa H33 2 I) QUYỀN TƯ VẤN CỦA ICJ 1) CHỦ THỂ YÊU CẦU TƯ VẤN Chỉ những quốc gia mới được xuất hiện trước tòa với tư cách là 1 bên của vụ tranh chấp, các tổ chức quốc tế bao gồm những tổ chức quốc tế công khai và những tổ chức chính phủ cũng ko có tư cách này. Tuy nhiên quyền tư vấn của tòa ICJ thì có hiệu lực đối với cả những tổ chức này. Theo điều 65: Article 65 1. The Court may give an advisory opinion on any legal question at the request of whatever body may be authorized by or in accordance with the Charter of the United Nations to make such a request. 2. Questions upon which the advisory opinion of the Court is asked shall be laid before the Court by means of a written request containing an exact statement of the question upon which an opinion is required, and accompanied by all documents likely to throw light upon the question. Theo khoản 1 điều 65 quy định:tòa án có thể có những kết luận tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kì lúc nào theo yêu cầu của 1 cơ quan bất kì được chính hiến chương liên hợp quốc hoặc theo đúng bản quy chế này, cho toàn quyền được yêu cầu. Như vậy chủ thể yêu cầu tư vấn ở đây có thể là các cơ quan của LHQ, hoặc các tổ chức quốc tế, nhưng không thể là các quốc gia. 2) VẤN ĐỀ YÊU CẦU TƯ VẤN Chủ thể yêu cầu tư vấn có thể đưa ra vấn đề. Nhưng những vấn đề này chỉ được tòa đồng ý tư vấn nếu vấn đề đó nằm trong phạm vi hoạt động của chủ thể yêu cầu tư vấn. Từ 1946 ICJ đã đưa ra 24 ý kiến tư vấn liên quan đến việc kết nạp các thành viên của LHQ, bồi thường cho những tổn thất, những vi phạm quyền lợi trong các ban các vụ của LHQ, mối quan hệ pháp lý giữa miền nam tây phi ( namibia) và miền tây sahara, những phán quyết được đưa ra bởi tòa án hành chính quốc tế, chi trả cho những hoạt động của LHQ, tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân. 3 3) THỦ TỤC TƯ VẤN - Qúa trình tư vấn bắt đầu bằng việc Tổng thư kí LHQ hoặc các giám đốc hoặc các thư kí của các cơ quan yêu cầu tư vấn nộp 1 văn bản yêu cầu tư vấn gửi đến ban thư kí tòa..Trong trường hợp khẩn cấp, tòa án có thể làm những gì được cho là cần thiết để đẩy nhanh tốc độ của quá trình. - 1 vài ngày sau khi nộp yêu cầu, tòa sẽ rút ra 1 danh sách của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có khả năng cung cấp thông tin về những vấn đề đó trước tòa. Nhìn chung các quốc gia được liệt kê đều là các thành viên của tổ chức yêu cầu ý kiến tư vấn. Đôi khi nó bao gồm cả những quốc gia mà tòa án mở ra trong quá trình khởi tố vụ tranh chấp. - Article 66 1. The Registrar shall forthwith give notice of the request for an advisory opinion to all states entitled to appear before the Court. 2. The Registrar shall also, by means of a special and direct communication, notify any state entitled to appear before the Court or international organization considered by the Court, or, should it not be sitting, by the President, as likely to be able to furnish information on the question, that the Court will be prepared to receive, within a time- limit to be fixed by the President, written statements, or to hear, at a public sitting to be held for the purpose, oral statements relating to the question. 3. Should any such state entitled to appear before the Court have failed to receive the special communication referred to in paragraph 2 of this Article, such state may express a desire to submit a written statement or to be heard; and the Court will decide. 4. States and organizations having presented written or oral statements or both shall be permitted to comment on the statements made by other states or organizations in the form, to the extent, and within the time-limits which the Court, or, should it not be sitting, the President, shall decide in each particular case. Accordingly, the Registrar shall in due time communicate any such written statements to states and organizations having submitted similar statements. -Theo quy định tại điều 66 4 1. Thư kí tòa sẽ nhanh chóng thông báo kết luận tư vấn cho tất cả các nước có quyền tham gia vào tòa 2. Ngoài ra, thư kí tòa sẽ thông báo cho 1 nước bất kì có quyền đến tòa cũng như 1 tổ chức quốc tế bất kì nào có thể( theo ý kiến của chủ tịch tòa án nếu như tòa án không họp) cung cấp những tin tức về ván đề cụ thể đó, rằng tòa án sẵn sàng nhận trong thời hạn chủ tịch đã quy định, tất cả những tài liệu văn bản báo cáo có liên quan đến ấn đề, hoặc sẵn sàng nghe những báo cáo bằng lời trong phiên họp công khai được triệu tập nhằm mục đích đó. 3. Nếu nước có quyền đến tòa không nhận được thông báo đặc biệt đã được nhắc đến ở khoản 2 của điều này, thì nước đó có thể bày tỏ nguyện vọng được đệ trình bản báo cáo bằng văn bản hoặc được nghe tòa án thông qua quyết định về vấn đề đó. 4. Các nước và các tổ chức đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản hoặc bằng lời được phép thảo luận các báo cáo của các nước hoặc các tổ chức khác ở hình thức giới hạn và trong thời hạn do tòa hoặc do chủ tịch tòa quyết định trong từng trường hợp riêng biệt( nếu như tòa án không họp). Để đạt được mục đích này, thư kí tòa thông báo, trong thời hạn cần thiết, tất cả những bản báo cáo bằng văn bản đó cho các nước và các tổ chức đã gửi những bản báo cáo tương tự -Article 67 The Court shall deliver its advisory opinions in open court, notice having been given to the Secretary-General and to the representatives of Members of the United Nations, of other states and of international organizations immediately concerned. - Theo quy định tại điều 67, tòa sẽ đưa ra kết luận tư vấn của mình trong phiên họp công khai đã được báo trước cho Tổng thư kí và các đại diện của các thành viên LHQ trực tiếp có liên quan và cho đại diện của các nước và các tổ chức quốc tế khác. 4) HIỆU LỰC CỦA TƯ VẤN -Trái với những phán quyết của tòa,ngoại trừ trong trường hợp hiếm hoi là đã được quy định trước rằng nó sẽ có hiệu lực ràng buộc (ví dụ, như trong Công ước về Privileges và Immunities của Liên Hiệp Quốc, trong Công ước về Privileges và Immunities của các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, và Hiệp định giữa Trụ sở chính của Liên Hợp 5 Quốc và Hoa Kỳ của Mỹ), các ý kiến tư vấn của Tòa án không có hiệu lực bắt buộc. Những cơ quan tổ chức yêu cầu tư vấn vẫn có thể tự do quyết định sẽ giải quyết thế nào, những gì có hiệu lực với các ý kiến này. - Mặc dù ko có hiệu lực ràng buộc, nhưng những ý kiến tư vấn của tòa án vẫn mang tầm quan trọng pháp lý lớn và ảnh hưởng về chuẩn mực đạo đức. Nó là công cụ của ngoại giao phòng ngừa và có tác dụng gìn giữ hòa bình. Ý kiến tư vấn, theo cách riêng của nó, đã góp phần vào việc làm sáng tỏ và sự phát triển của luật quốc tế, do đó góp phần tăng cường mối quan hệ hòa bình giữa các nước. 5) THỰC TIỄN QUA VỤ VIỆC Ý KIẾN TƯ VẤN VỀ VŨ KHĨ HẠT NHÂN a) BỐI CẢNH VỤ VIỆC 8-7-1996 ICJ đã đưa ra 1 ý kiến tư vấn có tính lịch sử để đáp lại câu hỏi của đại hội đồng liên hợp quốc đưa ra năm 1994: theo luật quốc tế có cho phép đe dọa và sử dụng vũ khĩ hạt nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào hay ko? WHO cũng từng yêu cầu ý kiến tư vấn nhưng tòa cho rằng yêu cầu của WHO là ko liên quan đến những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của tổ chức này theo điều 96 khoản 2 hiến chương LHQ.1993 WHO đã yêu cầu tòa cho ý kiến tư vấn về vấn đề sau: Xét về ảnh hưởng đối với sức khỏe và đối với môi trường, việc sử dụng vũ khí hạt nhân của1 quốc gia trong chiến tranh hoặc của các lực lượng vũ trang khác khi xung đột là vi phạm nghĩa vụ của họ theo luật quốc tế trong đó bao gồm cả tổ chức who? Tuy nhiên có 1 chút nghi ngờ rằng về mặt chính trị, yêu cầu của chủ tịch WHO vào 14-5-1993 đã mở đường cho yêu cầu của đại hội đồng. Hơn nữa khi từ chối đưa ra ý kiến theo yêu cầu của WHO thì tòa cũng đưa ra 1 vài nhận xét quan trọng về thẩm quyền tư vấn của tòa. Tòa đã mời các quốc gia đưa ra văn bản tuyên bố về yêu cầu đó và tổ chức quá trình tố tụng miệng từ 30-10 đến 15-11-1995. Tất cả có 41 quốc gia( bao gồm tất cả các quốc gia có vũ khí hạt nhân trừ TQ )đã đưa ra bản tuyên bố miệng hoặc bằng văn bản Như vậy có thể thấy ở đây , chủ thế yêu cầu tư vấn là WHO và UNGA và vấn đề được yêu cầu tư vấn chính là tính hợp pháp của việc đe doạ và sử dụng vũ khí hạt nhân 6 b) Ý KIẾN TƯ VẤN TÒA ĐƯA RA 1) Ý kiến của tòa về yêu cầu tư vấn của WHO Để mà quy định phạm vi hành động hoặc thẩm quyền theo lãnh thổ của một tổ chức quốc tế , viêc viện dẫn cần phải có những quy phạm cụ thể của tổ chức , và việc viện dẫn này sẽ được đặt lên vị trí hàng đầu theo điều lệ . Áp dụng “Luật được công nhận về cách giải thích hiệp ước “ (well-established rule of treaty interpretation ) được thể hiện ở điều khoản 31 của Công ước Vienna 1969 (1),Toà đã kết luận rằng những câu hỏi của WHO nêu ra không thuộc phạm vi hoạt động của tổ chức này khi đã xác định rõ theo điều lệ của nó. Ngược lại , điều khoản 2 của Điều lệ WHO chấp nhận WHO giải quyết ảnh hưởng của việc sử dụng vũ khí hạt nhân đối với sức khoẻ và môi trường , vấn đề đang tranh cãi đó liên quan đến tính hợp pháp của việc sử dụng những vũ khí tương tự khi xem xét đến ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường. Theo Toà nhận thấy, cho dù vũ khí hạt nhân được sử dụng hợp pháp hay không thì hệ quả của nó vẫn là một và thẩm quyền của WHO trong việc giải quyết các hệ quả đó không phụ thuộc vào tính hợp pháp của hành động (2).Trong trường hợp ,Toà nắm giữ bản báo cáo cụ thể về cách giải thích những điều lệ của WHO được đưa ra bởi những nguyên tắc cụ thể và hơp logic để xem xét bằng Hiên chương .Việc trao cho WHO thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ đồng nghĩa với việc bỏ qua nguyên tắc về chuyên môn bởi thẩm quyền đó không thể được coi là một sự ngầm định của Hiến chương WHO về các mục tiêu và đối tượng được các quốc gia thành viên trao cho nó Hơn nữa , nếu theo hiệu lực của Điều khoản 57 theo Hiến chương Liên Hợp quốc thì WHO có “ trách nhiệm quốc tế rộng rãi “ (wide _international responsibilities ) , những trách nhiềm đó là giới hạn cần thiết tới phạm vi ảnh hưởng của y tế cộng đồng và không thể xâm pham trách nhiệm của những thành viên khác trong hệ thống UN . 1:Including the rule in Art.31(3)(b) requiring account to be taken of "any subsequent practice in the application of the treaty which establishes the agreement of the parties regarding its interpretation". 7 Bao gồm các quy định trong Art.31 (3) (b) yêu cầu lý do phải đc đưa ra bởi bất kì hành động nào xảy ra sau trong việc áp dụng hiệp ước mà đã được thiết lập bởi sự đồng tình của các thành viên liên quan đến chính lời giải thik đó 2:opinion para21-22 21. The use of the word "permitted" in the question put by the GeneralmAssembly was criticized before the Court by certain States on the ground that this implied that the threat or the use of nuclear weapons would only be permissible if authorization could be found in a treaty provision or in customary international law. Such a starting point, those States submitted, was incompatible with the very basis of international law, which rest upon the principles of sovereignty and consent; accordingly, and contrary to what was implied by use of the word "permitted",States are free to threaten or use nuclear weapons unless it can be shownthat they are bound not to do so by reference to a prohibition in either treaty law or customary international law Việc sử dụng từ “permitted” trong câu hỏi được đưa ra bởi Đại hội đồng đã bị toà án phê phán bởi một số nước với lý do :Sự đe doạ và sử dụng vũ khí hạt nhân chỉ có thể được cho phép nếu người ta có thể thấy sự uỷ quyền trong những điều kiện của hiệp ước hoặc trong Luật quốc tế hiện hành .Các nước này đệ trình lên rằng một sự khởi đầu như vậy là không phù hợp với ngay chính cơ sở của Luật quốc tế .Điều này dựa trên nguyên tắc về chủ quyền và đồng thuận., cũng như vậy là trái với điều được ngụ ý trong việc sử dụng “permitted “để các nước được tự do đe doạ và sử dụng những vũ khí hạt nhân trừ khi có thể chứng minh rằng họ không được phép làm như vậy bằng cách viện dẫn tham chiếu đối với các việc cấm trong bản luật của các hiệp ước hay trong luật quốc tế hiện hành It was also contended that the above-mentioned dictum of the present Court was directed to the possession of armaments and was irrelevant to the threat or use of nuclear weapons. Finally, it was suggested that, were the Court to answer the question put by the Assembly, the word "permitted" should be replaced by "prohibited". Có í kiến tranh cãi rằng kết luận cuối cùng của toà hiện nay là trực tiếp hỏi đến sự sở hữu các vũ khí và không liên quan đến việc đe doạ và sử dụng các vũ khí hạt nhân .Cuối cùng , toà cũng được đề nghị phải trả lời những câu hỏi đựơc đưa ra bởi ĐẠI HỘI ĐỒNG và những từ " permitted " được thay thế bởi " prohibited". 8 22. The Court notes that the nuclear-weapon States appearing before it either accepted, or did not dispute, that their independence to act was indeed restricted by the principles and rules of international law, more particularly humanitarian law , as did the other States which took part in the proceedings.Hence, the argument concerning the legal conclusions to be drawn from the use of the word "permitted", and the questions of burden of proof to which it was said to give rise, are without particular significance for the disposition of the issues before the Court. Toà ghi nhận rằng những nước có vũ khí hạt nhân có mắt trước Toà thì hoặc là chấp nhạn hoặc không tranh cãi rằng quyền độc lập được thực hiện trong thực tế bị ngăn chặn bởi những nguyên tác quy định của Luật quốc tế ., đặc biệt hơn nữa bởi Luật Nhân đạo như các quốc gia khác đã làm , những quốc gia có tham gia vào quá trình tố tụng . Do đó ,sự tranh cãi liên quan đến những phán quyết hợp pháp đã được đưa ra từ việc sử dụng từ "permitted " là những vấn đề về việc yêu cầu đòi hỏi chứng cứ cũng được đưa ra là không có ý nghĩa đặc biệt gì cho những vấn đề được xử trước Toà . 2)Ý kiến của Toà về yêu cầu tư vấn của Đại Hội Đồng LHQ Xem xét nhữg đặc trưng của ĐẠI HỘI ĐÔNG, Toà đã đưa ra kết luận rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân được coi là vấn đề không thể phù hợp đựơc (scarcely reconcilable ) với yêu cầu của Luật Nhân đạo .(opinion .para 95_3 ).Tuy nhiên, , cũng nhận thấy rằng không có yếu tố có thẩm quyền nào trên thực tế chắc chắn rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân là cần thiết và trong tất cả hoàn cảnh vi phạm đến nguyên tăc và điều lệ của luật áp dụng trong xung đột vũ trang Hơn nữa ,quyền cơ bản về sự tồn tại của mỗi quốc gia là cần thiết và theo quyền tự vệ trong thoả thuận ở Điều khoản 51(4) của Hiến chương khi mà sự tồn tại là sự sống còn.Mà cũng không thể bác bỏ chính sách răn đe (policy of deterrence ) là một chính sách đã được cộng đồng quốc tế tán thành trong nhiều năm , hoặc những bảo lưu được thêm vào bởi các nước chắc chẳn có sử dụng vũ khí hạt nhân với sự cam đoan của các nước đó trong nghị định thư tới TREATY OF TLATELOLCO AND RAROTONGA và trong tuyên bố của họ về mối liên quan với Hiệp ước Không 9 phổ biến vũ khí hạt nhân , không phảỉ sử dụng đến vũ khí hạt nhân .Theo đó ,Toà không thể đạt đến một kết luận rõ ràng về tính hợp pháp hay không hợp pháp của việc sử dụng vũ khí hạt nhân khi một nứơc trog tình cảnh bắt buộc phải tự vệ và điều đó là mang tính chất sống còn .Tuy nhiên ,Toà chỉ ra rằng giao ước được đưa ra trong khoản IV của Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân để đàm phán về viêc cam kết giải trừ hạt nhân là một giao ước đạt được kết quả rõ ràng thông qua phương hướng hành động cụ thể . 3 opinion 95 95. Nor can the Court make a determination on the validity of the view that the recourse to nuclear weapons would be illegal in any circumstance owing to their inherent and total incompatibility with the law applicable in armed conflict. Certainly, as the Court has already indicated, the principles and rules of law applicable in armed conflict – at the heart of which is the overriding consideration of humanity – make the conduct of armed hostilities subject to a number of strict requirements. Thus, methods and means of warfare, which would preclude any distinction between civilian and military targets, or which would result in unnecessary suffering to combatants, are prohibited. In view of the unique characteristics of nuclear weapons, to which the Court has referred above, the use of such weapons in fact seems scarcely reconcilable with respect for such requirements. Nevertheless, the Court considers that it does not have sufficient elements to enable it to conclude with certainty that the use of nuclear weapons would necessarily be at variance with the principles and rules of law applicable in armed conflict in any circumstance. Ý kiến 95: Mà Toà cũng không thể quyết định về tình hợp pháp của quan điểm cho rằng việc cuối cùng phải sử dụng đến vũ khí hạt nhân là không hợp pháp trong bất cứ trường hợp nào vì tính không phù hợp hoàn toàn và cố hữu với luật áp dụng trong xung đột vũ trang .Rõ rang Toà đã chỉ ra những nguyên tắc và những điều luật được áp dụng trong xung đột vũ trang mà thực chất trong nội tại những nguyên tắc đó là sự xuy xét có tính bao trùm của tình nhân văn làm cho việc tiến hành những xung đột vũ trang phải theo một số những quy định hết sức chặt chẽ.Do đó , những phương pháp và phương tiện tiến hành chiến tranh mà điều này sẽ vựơt ra ngoài tất cả những sự phân biệt giữa các mục tiêu quân sự 10 và dân sự hoặc nó sẽ đưa đến những kết quả là sự tổn thất không đáng có .Căn cứ vào những đặc tính duy nhất của Vũ khí hạt nhân , mà Toà cũng nói đến trong thực tế việc sử dụng những Vũ khí như vậy hầu như không thể phù hợp với những yêu cầu như vậy .Tuy nhiên , Toà án cũng cho rằng không có đủ những nhân tố cần thiết khiến tòa có khả năng kết luận chắc chắn rằng việc sử dụng những vũ khí hạt nhân nhất thiết là đi ngược lại với những nguyên tắc và những quy luật được áp dụng trong xung đột vũ trang trong bất cứ trường hợp nào. 4-Điều khoản 51 của Hiến chương : Không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên Liên Hợp Quốc bị tấn công vũ trang cho đến khi Hội đồng Bảo an chưa áp dụng được những biện pháp cần thiết để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các thành viên Liên Hợp Quốc áp dụng trong việc bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho Hội đồng Bảo an và không được gây ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng Bảo an, chiểu theo Hiến chương này, đối với việc Hội đồng Bảo an áp dụng bất kỳ lúc nào những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. c) Kết luận chung Không nên coi nhẹ tính pháp lý và chính trị trong các ý kiến tư vấn của tòa.Nghị quyết bao hàm lời yêu cầu được thong qua phần lớn là nhờ Phong trào không liên kết và phản ánh sự ủng hộ to lớn đối với Dự án Toà thế giới (The resolution embodying the requests owed their adoption to the Non- Aligned Movement an reflected considerable popular support for the World Court Project.) Chúng đã được thông qua mặc dù vấp phải sự phản đỗi kịch liệt của các quốc gia có vũ khí hạt nhân. Đối với các quyền ưu đãi của mình, tòa đã không sử dụng đến quyền từ chối yêu cầu này. Trái lại, đây là lần đầu tiên trong lịch sử một tòa án quốc tế đã xem vũ khĩ hạt nhân là quy chế hợp pháp, và tuyên bố rằng những vũ khĩ này được áp dụng trong xung đột vũ trang theo Hiến chương Liên Hợp Quố
Luận văn liên quan