Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho để nghiên cứu

Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia có nền văn hóa lớn, đặc biệt là thơ ca phát triển từ rất sớm, với hai tác giả tiêu biểu là Lý Bạch và Basho cùng với hai thể thơ tứ tuyệt và thơ Haiku là đỉnh cao của thi ca nhân loại. Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của một thời đại văn chương có một không hai không chỉ với Trung Hoa mà với toàn thế giới. Còn thơ haiku cũng được xem là viên ngọc quý của xứ sở hoa anh đào. Cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng giữa hai nhà thơ cũng có nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Haiku là một thể thơ rất ngắn nên chúng tôi chọn thể thơ tứ tuyệt của Lý Bạch để trước hết so sánh sự tương đồng về mặt thể loại trong hai loại thơ này. Sau cùng là đối chiếu về góc độ thiên nhiên trong hai thể thơ này của hai nhà thơ để thấy sự giống nhau và khác nhau. Từ đó, ta sẽ hiểu hơn về vẻ đẹp thơ ca của hai đất nước này và có thái độ trân trọng đối với những giá trị tinh thần cao quý của nhân loại. Đồng thời, đóng góp vào kho tàng lí luận văn học một cách nhìn, một cách cảm nhận, khám phá mới về thơ ca. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi chọn đề tài : Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho để nghiên cứu.

doc82 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7631 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho để nghiên cứu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia có nền văn hóa lớn, đặc biệt là thơ ca phát triển từ rất sớm, với hai tác giả tiêu biểu là Lý Bạch và Basho cùng với hai thể thơ tứ tuyệt và thơ Haiku là đỉnh cao của thi ca nhân loại. Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của một thời đại văn chương có một không hai không chỉ với Trung Hoa mà với toàn thế giới. Còn thơ haiku cũng được xem là viên ngọc quý của xứ sở hoa anh đào. Cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng giữa hai nhà thơ cũng có nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Haiku là một thể thơ rất ngắn nên chúng tôi chọn thể thơ tứ tuyệt của Lý Bạch để trước hết so sánh sự tương đồng về mặt thể loại trong hai loại thơ này. Sau cùng là đối chiếu về góc độ thiên nhiên trong hai thể thơ này của hai nhà thơ để thấy sự giống nhau và khác nhau. Từ đó, ta sẽ hiểu hơn về vẻ đẹp thơ ca của hai đất nước này và có thái độ trân trọng đối với những giá trị tinh thần cao quý của nhân loại. Đồng thời, đóng góp vào kho tàng lí luận văn học một cách nhìn, một cách cảm nhận, khám phá mới về thơ ca. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi chọn đề tài : Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho để nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu: Nền văn học Nhật Bản, Trung Quốc nói chung, thơ haiku và thơ tứ tuyệt nói riêng cũng từ khá lâu rồi được nhiều dịch giả, giới nghiên cứu và bạn đọc trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi với những điều kiện có thể cũng đã tiếp thu và tìm hiểu một số công trình nghiên cứu của các tác giả như Nguyễn Khắc Phi – Trương Chính, Nguyễn Bích Thuận, Trần Trung Hỷ, Nhật Chiêu, Nguyễn Sĩ Đại,…và một số bài viết khác có liên quan trên trang web: http//google.com.vn. Tài liệu thứ nhất mà chúng tôi tiếp cận là “Văn học Trung Quốc, tập một” của Nguyễn Khắc Phi và Trương Chính. Ở tài liệu này, hai tác giả có đề cập đến Lý Bạch nhưng chỉ là về thân thế, sự nghiệp và nội dung tư tưởng trong thơ ông. Cuốn “Thơ Đường” của Nguyễn Bích Thuận giới thiệu, phân tích một số bài thơ của Lý Bạch và nêu lên tính chất lãng mạn trong thơ Lý Bạch. Cuốn “Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc” của Trần Trung Hỷ bàn về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của thơ sơn thủy. Cuốn “Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868” của Nhật Chiêu nói về con đường đến với thơ ca của Basho và một số vẻ đẹp trong thơ haiku của ông. Cuốn “Nhật Bản trong chiếc gương soi” của Nhật Chiêu có nội dung cơ bản gần như tài liệu trên đã được đề cập (Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868). Và tài liệu “Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường” của Nguyễn Sĩ Đại nói một cách khái quát về cấu trúc của thơ tứ tuyệt, biện pháp ngôn ngữ thơ tứ tuyệt… Qua một số tài liệu chính kể trên, chúng tôi nhận thấy rằng thiên nhiên trong thơ Lý Bạch và Basho đều được tác giả này hoặc tác giả khác nói tới nhưng chỉ là cái nhìn khái quát, chưa có sự khám phá sâu sắc và nhất là chưa so sánh giữa hai nhà thơ này. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi qua việc tiếp thu các công trình nghiên cứu của các tác giả này, cộng với sự tìm tòi, nghiên cứu sẽ đưa ra được những điểm giống và khác nhau về mặt nội dung cũng như nghệ thuật trên cơ sở so sánh thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: a. Mục đích: Giới thiệu đến độc giả một hướng nhìn, một cách tiếp cận, khám phá mới về thơ Tứ tuyệt đời Đường và thơ Haiku. Khám phá cái hay, cái đẹp của thơ ca Trung Quốc và Nhật Bản thông qua hai nhà thơ tiêu biểu là Lý Bạch và Basho. Giúp người đọc nhận ra sự khác biệt trong cách miêu tả thiên nhiên của Lý Bạch và Basho. Khơi gợi lòng yêu mến thơ ca của mọi người đối với thơ Đường (đặc biệt là thơ Tứ tuyệt) và Haiku qua mối giao cảm giữa con người và thiên nhiên. b. Nhiệm vụ: Tìm ra điểm tương đồng và khác biệt về thiên nhiên trong thơ Tứ tuyệt của Lý Bạch và Haiku của Basho. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: a. Đối tượng: Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho. b. Phạm vi: Thơ viết về thiên nhiên của Lý Bạch và Basho, đối với thơ Lý Bạch chúng tôi chỉ khảo sát thơ tứ tuyệt. Xét trên bình diện thiên nhiên dưới nhiều góc độ. 5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Nếu đề tài nghiên cứu thành côngchúng tôi sẽ: - Đóng góp vào kho tàng lí luận văn học hướng nhìn, một cách khám phá mới về nội dung cũng như hình thức của thơ ca. - Giúp hiểu sâu hơn về thơ Đường (thơ Tứ Tuyệt) và thơ Haiku. - Mở rộng và trải lòng mình với thế giới thế giới thiên nhiên. - Vận dụng vẻ đẹp tinh túy của thơ Đường (thơ Tứ Tuyệt) và thơ Haiku. trong quá trình sáng tác văn học của bản thân - Biết tìm hiểu và khai thác giá trị của một bài thơ Đường luật, thơ Haiku. - Là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy trong chuơng trình Ngữ văn phần văn học Trung Quốc. - Ngòai ra còn là định hướng gợi mở đối với việc tìm hiểu và nghiên cứu… 6. Phương pháp nghiên cứu: -Tập hợp tài liệu - Phân loại - Quan sát - nhận diện - Khái quát hóa vấn đề - Tóm tắt khoa học - So sánh - đối chiếu - Phân tích và tổng hợp 7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn gồm có 3 phần: Chương 1: Con đường thơ của Lý Bạch và Basho. Chương 2: Sự gặp gỡ giữa thơ thiên nhiên của Lý Bạch và thơ thiên nhiên của Basho. Chương 3: Những nét khác biệt trong việc thể hiện thiên nhiên trong thơ Lý Bạch và Basho. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CON ĐƯỜNG THƠ CỦA LÝ BẠCH VÀ BASHO 1. Cơ sở để so sánh Lý Bạch và Basho: 1.1. Sự tương cận giữa hai nền văn hóa, hai nền thơ ca Nhật Bản và Trung Quốc: Trong ba nền văn hóa lớn của phương Đông, nếu Ấn Độ được coi là duy linh, Trung Quốc thực tiễn, thì Nhật Bản lại rất duy mĩ, duy tình. Nếu Trung Quốc được biết đến như một trong những cái nôi của văn minh nhân loại thì Nhật Bản được biết đến bởi trang phục truyền thống là Kimono và hoa Anh Đào. Nếu người Trung Quốc tự hào rằng họ có Vạn lí trường thành dài vô tận thì người dân Nhật cũng biết cúi mình trước ngọn núi Phú Sĩ cao sừng sững. Trung Quốc là một quốc gia có bề dày lịch sử và văn hóa. Nền văn hóa ấy rất phong phú và đa dạng. Về triết học có chư tử bách gia, trong đó đáng chú ý nhất là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. Về nghệ thuật có thư pháp (nghệ thuật viết chữ Hán), hội họa, kiến trúc, điêu khắc… Còn Nhật Bản là một quần đảo xa xôi nơi đại lục, với các đảo chính như Hokkaido, Shikoku, Kyushu,…nơi lưu giữ nhiều danh lam thắng cảnh đã khiến người ngoại quốc luôn nhớ đến Nhật Bản như sông Shinano, hồ Biwa,…Những vẻ đẹp lộng lẫy mà huyền ảo ấy đã hun đúc nên tâm hồn bao thế hệ văn nhân. Về văn hóa, có thể nói rằng Nhật Bản hay Trung Quốc đều giữ một vị trí cho riêng mình nhưng điều mà chúng ta có thể thấy là hai quốc gia này mang trong mình nhiều nét đẹp văn hóa từ xa xưa và có sức ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa chung của nhân loại. Ở khía cạnh văn học, Trung Quốc có thơ, từ, tiểu thuyết, hý khúc…Có thể thấy triết học cổ đại Trung Quốc là thành tựu tiêu biểu của văn hóa Trung Quốc, nhưng văn học lại là biểu hiện rực rỡ nhất mang tính dân tộc độc đáo của văn hóa Trung Quốc. Văn chương Nhật tuy không có cơ sở triết lí như văn học Trung Quốc có Bách gia chư tử, nhưng đó là một nền văn chương của tình cảm và thiên nhiên. Người ta biết đến văn chương Nhật với các thể loại như Tanka, Haiku, kịch Nô và các loại văn xuôi đầy chất thơ. Cho đến ngày nay, sức ảnh hưởng lớn của Trung Quốc đến văn chương nhân loại vẫn là thơ Đường và Nhật Bản là thơ haiku. Và đại diện tiêu biểu của nó là Lý Bạch và Basho. Như vậy, ta có thể thấy rằng văn hóa và văn chương của Trung Quốc và Nhật Bản có nhiều nét rất gần gũi, đó là cơ sở để ta so sánh giữa hai nhà thơ Lý Bạch và Basho. 1.2. Sự tương ngộ giữa hai tâm hồn thơ ca: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa TrungQuốc và Nhật Bản một phần nào đó đã làm nên nét tương cận trong tính cách của Lý Bạch và Basho. Cả hai nhà thơ đều có một tâm hồn cao đẹp, hướng về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người. Song, do sống ở hai thời đại khác nhau đã làm nên nét khác biệt trong tính cách, tâm hồn của hai nhà thơ. Lý Bạch là một con người có tâm hồn phóng khoáng,cởi mở, còn Basho thì dạt dào, sâu lắng. Ta có thể bắt gặp điều đó qua nội dung và tư tưởng thơ ca của Lý Bạch và Basho. 1.2.1. Tâm hồn phóng khoáng của Lý Bạch: Có thể nói rằng từ lúc thiếu thời cho đến lúc về già, trước sau Lý Bạch vẫn giữ vẹn một tâm hồn phóng khoáng, không thích bị ràng buộc. Điều đó ta có thể thấy qua thơ ca của ông và cả trong cách sống của ông nữa. Là một con người có tâm hồn phóng khoáng nên ông thích “rày đây mai đó” chứ không thích ngồi yên một chỗ. Năm 16 tuổi, ông cùng Đông Nham Tử đi ẩn tại phía nam núi Dân. Lúc 20 tuổi bắt đầu sống cuộc đời hiệp khách. Lý Bạch đi du lịch khắp nơi : viếng Thành Đô, thăm núi Nga Mi, Thanh Thành, rong chơi hồ Động Đình, lưu vực Tương giang, Hán giang, qua Giang Hạ đến Kim Lăng, Dương Châu, Nhữ Hải, vào Ngô Việt…Năm 726, ông đến An Lục (nay thuộc Hồ Bắc), thăm đầm Vân Mộng. Tại đây ông cưới vợ là cháu gái quan tể tướng hồi hưu Hứa Ngữ Sư, rồi tạm dừng chân phiêu lãng và bắt đầu nổi tiếng văn chương giữa tuổi 30. Nhưng không ở yên được lâu, Lý Bạch đến Tương Dương, làm quen với nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên, người lớn hơn ông 10 tuổi. Từ đó ông tha thiết muốn được hoạt động “kinh bang tế thế”. Lý tưởng của ông là “làm rõ lời bàn của Quản Trọng, Án Anh, tính mưu chước của đế vương, đem tài năng, trí tuệ nguyện giúp nhà vua để cho thiên hạ yên ổn, bốn bể thanh bình” (Đại Thọ sơn đáp Mạnh thiếu phủ di văn). Nhưng ông thường tự phụ, ví mình với Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng, thái độ “không chịu khom mình”, “không cầu cạnh ai”, “giao thiệp ngang hàng với chư hầu” nên ông không được giới chính trị hoan nghênh. Năm 741, ông đưa gia quyến đến ở Duyện Châu (Sơn Đông). Năm đầu Thiên Bảo, Lý Bạch rời nhà xuống miền nam, đi chơi Cối Kê (Chiết Giang), ngụ tại Thiểm Trung với đạo sĩ Ngô Quân. Ngô Quân được vua triệu về kinh, đem Lý Bạch theo. ). Hạ tiến cử ông, vua Huyền Tông vời vào bệ kiến. Vua mến tài, cho ông vào điện Kim Loan, phụ trách việc thảo thư từ. Tuy nhiên, Trường An chỉ giữ gót chân của ông được ba năm. Từ giã Trường An, Lý Bạch đến Lạc Dương gặp Đỗ Phủ rồi gặp Cao Thích ở Biện Châu. Ba nhà thơ cùng đi chơi với nhau mấy tháng trời. Sau khi từ biệt Đỗ Phủ tại quận Lỗ, Duyện Châu (Sơn Đông), Lý Bạch lại đi du lịch các nơi. Phía Bắc ông lên Triệu, Ngụy, Tề; phía tây qua Bân, Ký, Thương, U; phía nam ông đặt chân đến song Hoài, sông Tứ, xuống tận Cối Kê... Những năm về sau Lý Bạch cũng phiêu bạt tứ xứ do hoàn cảnh chứ không phải do tâm muốn. Nhưng có thể nói rằng trong hơn nửa đời người thì Lý Bạch có cuộc sống tự tại và ít dừng chân lại bất kì nơi nào trong thời gian dài. Về tư tưởng thơ ca, Lý Bạch không chịu gò bó bởi quy luật ngôn từ. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho rằng: “Trong khi Lý Bạch phóng bút một cách phiêu diêu với những thể thơ tương đối tự do như cổ phong, nhạc phủ, ca hành thì Đỗ Phủ công phu trau chuốt những bài luật thi”[3; tr.163]. Nội dung thơ ca của Lý Bạch cũng một phần nào thể hiện được tâm hồn phóng khoáng của nhà thơ. Ông có thể làm thơ mọi lúc, mọi nơi và cả trong khi đang say rượu. Nhà thơ không tự trói buộc mình vào một đề tài hay bất cứ hình thức nào của thơ ca. Đối với ông, bất cứ những gì của đời sống đều có thể đem vào thơ được, từ cây cỏ, hoa lá,…cho đến rượu, trăng đều là nguồn cảm hứng để Lý Bạch làm thơ. Và đặc biệt hễ rượu vào là thơ ra. Chính vì thế, ta có thể thấy trong thơ ca cũng như cách sống của Lý Bạch toát lên một tâm hồn phóng khoáng, tư tưởng dễ hòa hợp với đời. 1.2.2. Tâm hồn dạt dào của Basho: Cuộc đời Basho là những cuộc hành hương vô tận. Những con đường gió bụi qua các thị trấn, những đồng không mông quạnh, những hẻm núi và vực thẳm… Chính vì lẽ đó, mà người đời thường gọi ông là “thi sĩ lang thang”. Ông đi khắp đất nước Nhật và ở mỗi chỗ dừng chân ông đều trải lòng mình ra với mọi người. Có lần, trên đường du hành, Basho đi qua một thôn làng. Đó là một đêm trăng rằm – một nhóm dân làng ngồi ngoài trời uống rượu sake, ngắm trăng và cùng nhau soạn thơ haiku. Thấy Basho lại gần, họ mời khách lạ nhập bọn và làm một bài thơ về trăng rằm. Basho không ngần ngại, thế là bài thơ tuyệt tác về trăng ra đời: Vầng trăng non dại Theo tôi từ độ ấy Ai có ngờ đêm nay! Trong suốt hành trình thơ của Basho, người đọc có thể thấy ở Basho một nét đẹp của sự giản dị nhưng rất phong phú và đặc sắc. Ông thấu hiểu con người và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Từ những sự vật nhỏ bé, bình thường như chiếc lá, ánh trăng, phiến đá,…đều được đi vào thơ ông một cách rất tự nhiên. Rồi những kiếp người trôi nổi, những số phận bi thảm đã được nhà thơ cảm thông và chia sẻ. Trong suốt cuộc đời của mình, Basho luôn đi tìm vẻ đẹp cho thơ ca và khám phá ra nhiều điều mới lạ. Nhưng điều đáng quý nhất ở ông đó chính là một tâm hồn dạt dào, luôn hướng về cuộc sống của con người – nơi mà vẻ đẹp thơ ca luôn hội tụ ở đó. Có thể nói rằng, Lý Bạch và Basho tuy là hai tác giả sống trong hai thời đại khác nhau nhưng tâm hồn và tính cách của hai thi nhân có nhiều điểm tương đồng. Cuộc đời của hai người đều trải qua những cuộc du hành và gặp nhiều trắc trở, thăng trầm. Song, những trở ngại đó không làm cho Lý Bạch và Basho chùng bước mà trái lại, càng thôi thúc họ tiến về phía trước. Chính điều này đã làm nên một Lý Bạch có tâm hồn phóng khoáng, cởi mở và một Basho có tâm hồn dào dạt, luôn khát khao giao cảm với đời. 1.3. Sự tương đồng của tinh thần phương Đông: Lý Bạch và Basho là hai đại diện tiêu biểu cho nền văn học Trung Quốc và Nhật Bản. Đến từ nơi xứ tuyết, nhưng tâm hồn Basho không hề giá lạnh, trái lại trong ông luôn dào dạt tình thương đối với mọi kiếp người trong xã hội. Thơ Basho có thể ví như một viên đá quý mà chỉ có những chuyên gia mới thẩm định được giá trị của nó. Còn Lý Bạch là người thích ngao du sơn thủy, tinh thần lúc nào cũng mang một hoài bão lớn, mộng “tế thế kinh bang”. Có thể nói rằng Basho là con người của sự trầm lặng, cốt cách mang dáng vẻ thiền, còn Lý Bạch mang dáng vẻ thanh thoát. Thêm vào đó là tính cách ngạo nghễ, phóng khoáng của Lý Bạch đã tạo cho nhà thơ một cái gí đó như thoát khỏi trần thế. Chính vì vậy mà người đời phong tặng danh hiệu cho ông là “thi tiên”. Mặc dù tính cách của hai nhà thơ hoàn toàn trái ngược nhau nhưng về cơ bản, ta có thể bắt gặp giữa hai nhà thơ có một mối giao lưu trên tinh thần của phương Đông: đó là luôn hướng về ánh sáng, tương lai, về con người trong xã hội. 2. Con đường thơ của Lý Bạch: 2.1. Khái quát về thơ tứ tuyệt Đường: 2.1.1. Thơ Đường qua các giai đoạn: Nói đến thơ ca Trung Quốc, người ta nói đến thơ Đường. Đó là một thành tựu hết sức rực rỡ và độc đáo không chỉ của nền thơ ca cổ điển Trung Quốc mà còn của cả nền thơ ca nhân loại. Nếu về mặt lịch sử, đời Đường chia làm ba giai đoạn: Sơ – Thịnh, Trung, Vãn thì về mặt thơ ca được chia làm bốn: Sơ, Thịnh, Trung, Vãn. Sơ Đường (618 – 713) là giai đoạn chuẩn bị cho sự phát triển của thơ Đường về mọi mặt. Trong một thời gian, thi đàn thơ Đường còn mang nhiều tính chất ủy mị, đồi phế của thi phong Lục Triều. Nhưng sau đó với sự đóng góp của bốn gương mặt: Vương Bột, Dương Quýnh, Lô Chiếu Lân, Lạc Tân Vương đã xuất hiện bộ mặt mới. Thịnh Đường (713 – 766) là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thơ Đường. Có thể nói rằng thơ Thịnh Đường đã đạt đến sự thống nhất hoàn mĩ giữa nội dung và hình thức. Các nhà thơ nổi tiếng của thời kì này như Vương Xương Linh, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch, Đỗ Phủ… Trung Đường (766 – 827) tuy không được huy hoàng như thời kì trước nhưng vẫn khá nổi bật với phong trào Tân Nhạc Phủ mà nhân vật trung tâm là Bạch Cư Dị. Thơ thời kì này tập trung phản ánh mâu thuẫn giai cấp và thể hiện sự đồng tình sâu sắc với nhân dân. Các nhà thơ tiêu biểu như Bạch Cư Dị, Lưu Trường Khanh, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên… Vãn Đường (827 – 904) không có những đỉnh cao như Lý Đỗ song vẫn có những nhà thơ tiến bộ và có tài năng. Có thể kể tên một số nhà thơ chính của thời kì này là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục… Xét về mặt giai đoạn, thơ Đường đã trải qua bốn thời kì như đã kể trên. Còn xét về khuynh hướng và phong cách, người ta chia thơ Đường làm bốn phái: 1. Phái biên tái: Đề tài chủ yếu là cuộc sống ở chốn biên cương. Hai nhà thơ tiêu biểu là Cao Thích, Sầm Than. 2. Phái điền viên: Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên là hai đại biểu lớn. Đề tài chủ yếu là cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã. 3. Phái lãng mạn: Thường thông qua ước mơ táo bạo để đối lập với hiện thực đen tối, phong cách hào phóng bay bổng. Đại diện của trường phái này là thi tiên Lý Bạch. 4. Phái hiện thực: Tiêu biểu là Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Nói như Khang Hữu Vi là “Chủ nghĩa tả thực chi tiết”. Đó là các trường phái chính và các nhà thơ chính. Còn thực ra thơ Đường rất phong phú nhiều màu lắm vẻ. Ta có thể lấy nhận định của Ngô Tất Tố để khái quát sự diễn biến của thơ Đường: “Sơ Đường phần nhiều hay về khí cốt nhưng lối dùng chữ đặt câu chưa được trau chuốt cho lắm. Vãn Đường giỏi về từ tảo, lời đẹp, ý sâu nhưng lại thiếu phần hùng hồn, có khi còn bị cái tội ủy mị là khác. Duy có Thịnh Đường ở vào giữa hai thời kì ấy, cho nên chẳng những không có cái dở của hai thời kì kia, mà còn gồm cả cái hay của hai thời kì ấy nữa” [16; tr.65]. 2.1.2. Thể thơ tứ tuyệt: Trong thơ ca thế giới, ngắn hơn tứ tuyệt, ta đã biết có những câu thơ châm ngôn hai câu khắc trên đá của Ấn Độ cổ. Về thơ ba câu, ta thấy có thơ Haiku Nhật Bản nổi tiếng. Nhưng ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến một thể thơ mà có lẽ ai cũng biết, đó là thể thơ tứ tuyệt. Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn bát cú và ngũ ngôn. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có bốn câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi bốn câu thơ đó là tứ tuyệt. Thơ tứ tuyệt không nhất thiết phải có niêm luật chặt chẽ, nhưng phải vận dụng được tối đa các thủ pháp nghệ thuật, phát huy thế mạnh của âm vận, đặc biệt là cách tổ chức hình ảnh để tạo ra một cấu trúc đa chiều vừa đủ sức phản ánh hiện thực, vừa mang tính khái quát cao, vừa ưu tiên cho sự tự thể hiện của sự vật của các quan hệ vừa có chỗ cho tâm trạng cá nhân, cá tính của đối tượng cũng như của tác giả. Thơ tứ tuyệt không chỉ là vốn quý của Trung Hoa mà còn là vốn quý của toàn nhân loại. Nghiên cứu tứ tuyệt Đường, bên vẻ nghiêm trang mĩ lệ của luật tuyệt, có vẻ đẹp hồn nhiên tươi tắn của cổ tuyệt; không chỉ thấy tài năng độc đáo của mỗi nhà thơ Đường mà còn có thể tìm thấy bản chất của sáng tạo thơ ca. 2.2. Tiểu sử của Lý Bạch: 2.2.1. Thân thế: Lý Bạch (701 - 762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê quán ở Thành Kỉ, Lũng Tây ( nay ờ gần huyện Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc), tổ tiên vì mắc tội đi đày đến ở Tây Vực. Ông sinh ở Toái Diệp, trưởng thành ở làng Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu ( nay là huyện Miên Dương, Tứ Xuyên), nên Lý Bạch vẫn thường xem Tứ Xuyên là quê hương của mình. Nhiều nhà nghiên cứu đoán định một cách có căn cứ rằng ông là con một thương nhân. Ít nhất, tình hình gia thế đó cũng làm cho Lý Bạch không bi tư tưởng phong kiến chính thống chi phối một cách nặng nề. Lúc nhỏ ông học nhiều, tư chất thông minh. Ngoài ra, còn học đấu kiếm. Từ hai mươi tuổi, nhà thơ xuống núi Nga Mi, “ từ giã cha mẹ, quê hương, chống kiếm viễn du”. Trong mười sáu năm tiếp theo ( 726 – 742 ), ông đi du lịch rất nhiều nơi. Đi thưởng ngoạn phong cảnh, một phần để tìm tiên học đạo, song chủ yếu là để mở rộng giao du, gây thanh thế, tạo điều kiện cho việc tham dự vào trường chính trị, lập nên công danh sự nghiệp. Vì thế, ông thường chơi thân với những người có thanh thế, nói rõ chí nguyện mình, những mong họ tiến cử. Song ông đã thất vọng. Bọn chúng chẳng những không hiểu hoài bão chính trị của ông mà có lúc, do tính cách ngang tàng phóng túng, ông còn suýt bị hãm hại. Tuy hoạt động trên không đưa lại kết quả gì song đã làm cho ông bước đầu thấy được thấy bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời. Năm 742, Lý Bạch được đạo sĩ Ngô Quân tiến cử lên Huyền Tôn. Được triệu về kinh, Lý Bạch rất p
Luận văn liên quan