Thực trạng và 1 số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Quỳnh Phụ - Tỉnh Thái Bình

Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì nông nghiệp sản xuất ra những sản phẩm nuôi sống con người mà bất kỳ ngành sản xuất khác không thể thay thế được. Đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp ngành sản xuất lương thực chiếm vị trí quan trọng quyết định sự thành bại, ấm no hay phồn vinh của nông nghiệp và nông thôn, đôi khi là của toàn bộ nền kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy việc phát triển sản xuất lượng thực không những là quan trọng mà còn là chỗ dựa vững chắc để tạo đà phát triển cho các ngành sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra lương thực còn là nguồn dự trữ để nhà nước thực hiện chính sách xã hội. Từ những ý nghĩa cực kì to lớn như vậy Đảng và Nhà nứơc ta đã lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm cho các thời kì phát triển của đất nước. Đối với nước ta, sản xuất lương thực chủ yếu và quyết định vẫn là lúa gạo. Do vậy việc thâm canh sản xuất lúa vẫn là mục tiêu hàng đầu đặt ra. Quỳnh Phụ là một huyện thuần nông với đa số dân cư sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp. Cơ cấu nông nghiệp của huyện chủ yếu là trồng trọt đặc biệt là ngành sản xuất lúa gạo chiếm cơ cấu và diện tích chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất này. Vì vậy mà sản xuất lúa gạo quyết định lớn đến thu nhập và đời sống của các hộ sản xuất lúa gạo trên địa bàn huyện. Tuy nhiên sản xuất lúa gạo vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả không cao. Điều này là do rất nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là do thiên tai hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, trình độ áp dụng kỹ thuật khoa học mới còn nhiều hạn chế… Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình”

doc67 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4183 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và 1 số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Quỳnh Phụ - Tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu Phần I: Mở Đầu Tính cấp thiết của đề tài Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì nông nghiệp sản xuất ra những sản phẩm nuôi sống con người mà bất kỳ ngành sản xuất khác không thể thay thế được. Đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp ngành sản xuất lương thực chiếm vị trí quan trọng quyết định sự thành bại, ấm no hay phồn vinh của nông nghiệp và nông thôn, đôi khi là của toàn bộ nền kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy việc phát triển sản xuất lượng thực không những là quan trọng mà còn là chỗ dựa vững chắc để tạo đà phát triển cho các ngành sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra lương thực còn là nguồn dự trữ để nhà nước thực hiện chính sách xã hội. Từ những ý nghĩa cực kì to lớn như vậy Đảng và Nhà nứơc ta đã lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm cho các thời kì phát triển của đất nước. Đối với nước ta, sản xuất lương thực chủ yếu và quyết định vẫn là lúa gạo. Do vậy việc thâm canh sản xuất lúa vẫn là mục tiêu hàng đầu đặt ra. Quỳnh Phụ là một huyện thuần nông với đa số dân cư sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp. Cơ cấu nông nghiệp của huyện chủ yếu là trồng trọt đặc biệt là ngành sản xuất lúa gạo chiếm cơ cấu và diện tích chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất này. Vì vậy mà sản xuất lúa gạo quyết định lớn đến thu nhập và đời sống của các hộ sản xuất lúa gạo trên địa bàn huyện. Tuy nhiên sản xuất lúa gạo vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả không cao. Điều này là do rất nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là do thiên tai hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, trình độ áp dụng kỹ thuật khoa học mới còn nhiều hạn chế… Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình” 1.2 Mục tiêu nghiên cứu. 1.2.1. Mục tiêu chung. Đánh giá thực trạng và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa, trên cơ sở đó đề xuất ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình. Mục tiêu cụ thể Nêu cơ sơ lý luận về hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất lúa nói riêng. Đánh giá thực trạng sản xuất và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của các hộ nông dân trong huyện. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa của các hộ nông dân trong huyện. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề thuộc về kinh tế sản xuất lúa của các hộ nông dân với chủ thể là các hộ sản xuất lúa. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: đề tài được bắt đầu tiến hành nghiên cứu từ ngày 31/12/2007 đến ngày 25/4/2008. Phạm vi không gian: Địa bàn huyện Quỳnh Phụ - tỉnh Thái Bình. A.Tên đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở huyện Quỳnh Phụ- tỉnh Thái Bình. B. Nội Dung ChươngI:Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả sản xuất lúa I.Đặc điểm sản xuất lúa gạo Cây lúa là cây có thời gian sinh trưởng ngắn thường từ 4-5 tháng và phát triển qua 4 thời kì: thời kì nảy mầm, thời kì mạ, thời kì đẻ nhánh- làm đòng, thời kì trổ bông – làm hạt( Giáo trình cây lương thực, Nguyễn Đình Giao…2001). Mỗi giai đoạn phát triển có những đặc điểm sinh lý khác nhau, nhu cầu dinh dưỡng và điều kiện phát triển khác nhau. Vì vậy, tùy vào điều kiện mà có các biện pháp chăm sóc hợp lý để cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết giúp cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt đem lại năng xuất cao. Cũng như các cây trồng khác cây lúa chịu sự tác động lớn của các yếu tố điêù kiện tự nhiên như: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, lũ lụt, hạn hán … Nếu cấy lúa gặp điều kiện thuận lợi cây sẽ sinh trưởng phát triển tốt cho năng xuất cao. Ngược lại nếu gặp thời tiết khắc nghiệt tùy theo mức độ khác nhau mà cây có thể bị chết hoặc còi cọc, sinh trưởng và phát triển chậm cho năng xuất thấp. Trên thực tế năng xuất lúa được quyết định bởi tổng hòa rất nhiều các yếu tố: giống, kĩ thuật chăm sóc, điều kiện tự nhiên, yếu tố con người nhiều khi là do tác động của yếu tố thị trường. Mỗi giống lúa khác nhau cho năng xuất khác nhau và cùng một giống lúa với biện pháp thâm canh khác nhau có thể cho năng xuất khác nhau. Mỗi giống lúa thích hợp với từng loại đất nhất định và cho năng xuất cao khi đảm bảo yêu cầu kĩ thuật. Chính vì vậy mà cần thiết phải nắm rõ các đặc điểm của cây lúa để có biện pháp canh tác thích hợp. Ngoài ra sản xuất lúa còn mang nặng tính thời vụ. Thòi gian gieo cấy và thu hoạch dồn dập đã gây sức ép lớn về lao động khi thời vụ đến nhưng sau khi thời vụ qua đi thì lao động lại nhàn rỗi nhiều. Do đó phải có thêm nghề phụ để ổn định cuộc sống, giải quyết vấn đề lao động trong lúc nông nhàn. II. Vai trò sản xuất lúa gạo. 1. Gạo dùng làm lương thực – một trong những nhu cầu cơ bản của con người Cây lúa là một trong ba cây lương thực chủ yếu trên thế giới: lúa mì, lúa, ngô. Lúa gạo là nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng của con người. Lúa cung cấp tinh bột: giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo.Lúa cung cấp các vitamin, protein, lipit. Từ đặc điểm dinh dưỡng của hạt, đã từ lâu lúa gạo được coi là nguồn thực phẩm và dược phẩm có giá trị. Tổ chức Quốc tế đã gọi hạt gạo là “hạt của sự sống’’. Lúa cung cấp lương thực cho 1/2 dân số thế giới. Trong cơ cấu sản xuất lương thực của thế giới: lúa mì chiếm 30,5%, lúa gạo 26,5%, ngô 24%, còn lại các loại ngũ cốc khác. Ngoài việc sử dụng làm lương thực chủ yếu, các sản phẩm của cây lúa còn được sủ dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. 2. Gạo dùng để chăn nuôi. Nói chung, gạo dùng để chăn nuôi gia súc chủ yếu là tấm và gạo có chất lượng xấu. Trước đây, khoảng 5% tổng sản lượng gạo được dùng để chăn nuôi hàng năm. Kể từ thập kỉ 60, nhất là những năm đầu thập kỉ 90, tỷ lệ này giảm nhanh chóng bởi lẽ: Sự bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển, trước hết là ở châu Á dẫn đến quan hệ cung cầu gạo trên thế giới căng thẳng và giá gạo tăng trong những năm gần đây. Đặc biệt năm 2007 và đầu năm 2008 này giá gạo tăng một cách chóng mặt. Trình độ kỹ thuật sản xuất và công nghệ chế biến gạo được chú trọng đáng kể đã giảm nhanh chóng tỉ lệ tấm và không ngừng nâng cao chất lượng gạo, đáp ứng những nhu cầu cấp thiêt của con người cả về chất lượng và số lượng. Sản xuất ngô được đẩy mạnh, cùng với sự phát triển của sản xuất ngô các loại khác như khoai,sắn cũng được sử dụng cho chăn nuôi gia súc nhằm tiết kiệm triệt để lúa gạo. Hiện nay gạo dùng cho chăn nuôi chỉ chiếm khoảng 1%. 3. Gạo dùng cho công nghiệp chế biến. Từ lâu, gạo đã được sử dụng để chế biến các loại rượu cồn, cồn cao cấp hay gạo được dùng để làm bún, bánh phở …một số loại dược liệu y tế cũng được chế biến từ gạo. Nhiều năm qua, ngành công nghiệp thực phẩm phát triển đã sử dụng gạo chế biến ra hàng loạt bánh mứt kẹo cao cấp. Trong suốt thời gian dài trước đây, gạo được dùng làm nguyên liệu chế biến thường chiếm tỷ trọng từ 3-5% trong cơ cấu tiêu thụ gạo trên thế giới. Đến nay việc sử dụng gạo làm nguyên liệu trong công nghiệp chế biến cũng mang tính kinh tế thực dụng hơn. 4. Gạo dùng để xuất khẩu. Hàng năm lượng gạo lưu thông trên thế giới khá lớn. Việt Nam là một trong ba nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế. Trong những năm tới chúng ta sẽ chú ý sản xuất lúa đặc sản có mùi, dạng hạt đẹp để tăng chất lượng gạo, tăng giá trị xuất khẩu. Hiện tại có nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đến vấn đề này. Công tác lai tạo giống có chất lượng cao phù hợp với điều kiện ngoại cảnh đang được đẩy mạnh. Chủ chương liên kết 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà nông nhà doanh nghiệp trong nông nghiệp sẽ giúp cho việc xuất khẩu gạo của Việt Nam phát triển. 5. Lúa gạo tham gia ổn định an ninh lương thực của thế giới. Đứng trước sự khó khăn về lương thực ở nhiều nước và các châu lục. Hội nghị thượng đỉnh lương thực thế giới do FAO tổ chức tháng 10 năm 1996 tại Roma đã nêu rõ “ vấn đề đói và không an ninh lương thực là vấn đề mang tính toàn cầu và ngày càng có xu hướng trầm trọng thêm ở một số khu vực, đòi hỏi ngay phải có những hành động khẩn cấp vì theo dự đoán dân số thế giới ngày càng tăng và tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt” vì vậy hội nghị quốc tế này đã đề ra 7 cam kết và hành động, trong đó có 3 cam kết quan hệ lớn đến sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. III.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế sản xuất lúa. 1. Điều kiện tự nhiên Khí hậu thời tiết là yếu tố quan trọng nhất của điề kiện sinh thái có ảnh hưởng lớn nhất và thường xuyên nhất tới quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Cây lúa có xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên điều kiện khí hậu nước ta thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển. Trên đồng ruộng cây lúa chịu ảnh hưởng tổng hợp của các điều kiện khác nhau, trong đó yếu tố nhiệt độ có ảnh hưởng rõ rệt nhất. Các yếu tố khác như ánh sáng, nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Năm nào điều kiện khí hậu thuận lợi thì năm ấy cây lúa cho năng xuất cao và ngược lại. Vì vậy có thể nói yếu tố thời tiết khí hậu mang tính chất quyết định đến năng xuất lúa. 2. Nhóm biện pháp kĩ thuật canh tác Biện pháp kĩ thuật canh tác là sự tác động của con người vào cây trồng như chọn giống, kĩ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh… + Giống lúa: là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới năng xuất và hiệu quả kinh tế của cây lúa. Mỗi giống có nằng xuất nhẩt định và cho năng xuât cao khi đảm bảo yêu cầu kĩ thuật của chúng. Tuy nhiên mỗi giống chỉ phù hợp với từng loại đất cụ thể, từng miền khí hậu nhất định cho nên việc lựa chọn giống phù hợp và cho năng xuất cao đối với từng địa phương là hết sức quan trọng và cần thiết. + Kĩ thuật chăm sóc: Đây là một khâu không thể thiếu trong quá trình sản xuất nếu muốn đạt năng xuất cao. Trong quá trình chăm sóc phải cung cấp đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cây trồng có như vậy mới đem lại năng xuất như mong muốn. + Phòng trừ sâu bệnh: Sâu bệnh là một trong những nguyên nhân làm giảm năng xuất lúa. Ở cây lúa tình hình sâu bệnh rất phức tạp, với từng giống lúa thường xuyên xuất hiện những loại sâu bệnh khác nhau. Trong quá trình sản xuất cần quan tâm tới đồng ruộng để phát hiện kịp thời các loại bệnh. Từ đó có biện pháp tiêu diệt ngay khi chúng mới xuất hiện. Phòng chống sâu bệnh kịp thời, hữu hiệu sẽ giúp cho cây sinh trưởng tốt hơn và đem lại năng xuẩt và chất lượng lúa tốt hơn. 3.Nhóm các nhân tố kinh tế- tổ chức. Các nhân tố của nhóm này gồm nhiều vấn đề có thể chia ra như sau: + Trình độ năng lực của chủ thể sản xuất kinh doanh: nó có tác dụng quyết định trực tiếp tổ chức và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa. Năng lực của các chủ thể kinh tế sản xuất kinh doanh thể hiện qua: Trình độ khoa học kĩ thuật và tổ chức quản lí của các chủ thể. Khả năng ứng sử trước những thay đổi của điều kiện kinh tế thị trường và môi trường sản xuất kinh doanh. Khả năng và trình độ trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật của các chủ hộ. + Quy mô sản xuất: Các nông hộ khác nhau có diện tích đất canh tác khác nhau. Diện tích càng lớn thì mọi công việc như tổ chức, chăm sóc, thu hoạch, chi phí, cũng được tiết kiệm hơn. Do vậy quy mô sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế. + Thị trường: Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất lúa. Trên thực tế do bản chất của người nông dân vốn rất thực dụng do đó nếu vụ trước được mùa thì lập tức vụ sau người nông dân sẽ đầu tư vào sản xuất nhiều hơn. Vì vậy vấn đề đặt ra là khi có sản lượng cao cần mở rộng thị trường tiêu thụ làm sao cho sản xuất ổn định và phát triển để người sản xuất đảm bảo chi phí cho quá trình sản xuất 4. Nhóm nhân tố xã hội Để thấy được sự ảnh hưởng của nhóm nhân tố này đến năng xuất lúa chúng ta nghiên của các nhóm nhân tố sau: + Thói quen tiêu dùng: đó là sự hình thành tập quán của người tiêu dùng, no phụ thựôc vào đặc điểm của mỗi quốc gia, mỗi vùng cũng như trình độ dân trí của mỗi vùng, quốc gia đó. + Thu nhập: nói lên sức mua của người tiêu dùng, nếu thu nhập thấp sức mua của người tiêu dùng giảm và ngược lại. Tóm lại các nhóm nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội trên có liên quan mật thiết và tác động qua lại với nhau, làm biến đổi lẫn nhau và cùng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và hiệu quả sản xuất. Do vậy đánh giá đúng sự tác động của nó đến hiệu quả sản xuất lúa là rất cần thiết để có những giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa. IV. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới. Trong những năm gần đây tình hình sản xuất lúa gạo thế giới có những bước phát triển đáng kể. Năm 2004 sản lượng lúa gạo thế giới đạt 608,49 triệu tấn. Đến năm 2005 thế giới sản xuất được 628 triệu tấn gạo đạt mức kỉ lục nhờ giá cả tăng trongnăm 2004 làm tăng diện tích trồng trọt. Vụ lúa năm 2006 được tổ chức Nông- Lương Liên Hợp quốc(FAO) đánh giá đang tiến triển tương đối tốt tại nhiều nước tại bán cầu nam hoặc gần xích đạo. Một số nước thậm chí đã thu hoạch vụ lúa chính trước tháng 5/06. Số liệu ước tính của FAO cho thấy sản lượng lúa thế giới năm 2006 có thể đạt 635 triệu tấn. Tại các nước thuộc bán cầu nam, sản xuất lúa vụ năm 2006 của các nước Argentina, Australia, Indonesia, Madagascar có thể tăng do vụ mùa diễn ra khá thuận lợi trong khi sản xuất lúa của Brazin, Ecuador giảm. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam. Từ sau khi có nghị quyết 10, giao ruộng đất cho nông dân và chính sách coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nông nghiệp nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc. Nước ta từ chỗ thiếu đói về lương thực cho đến nay đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Hiện nay cây lúa được đưa vào sản xuất ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Do điều kiện đa dạng của khí hậu địa hình và tập quán canh tác nên nên sản xuất lúa gạo cũng phân bố không đều trong cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích gieo trồng lúa lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 51% tổng diện tích gieo trồng lúa của cả nước. Tiếp đến là đồng bằng sông Hồng với diện tích gieo trồng chiếm khoảng 16%. Các vùng còn lại chiếm khoảng 33% diện tích gieo trồng lúa cả nước. Diện tích gieo trồng lúa tăng chủ yếu là do tăng vụ chứ không phải do diện tích đất canh tác tăng. Năng xuất lúa của Việt Nam liên tục tăng trong những năm vừa qua. Năm 1990 năng xuất lúa chỉ mới đạt 31,9 tạ /ha/năm. Năm 2003 năng xuất trung bình của Việt Nam đạt 46,3 tạ/ha, tăng 1,45 lần so với năng xuất trung bình năm 1990. Hiện nay Việt Nam là nước có năng xuất lúa cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, so với năng xuất trung bình của các nước tiên tiến trên thế giới thì năng xuất của Việt Nam chỉ bằng 60 %. Về sản lượng: cùng với chính sách đảm bảo an ninh lương thực, sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành công. Sản lượng lúa liên tục tăng.Sản lượng lương thực năm 2005 là 39.622 nghìn tấn, năm 2006 là 39.648 nghìn tấn, năm 2007 là 39.977 nghìn tấn. Trứơc đây Việt Nam là nước phải nhập khẩu gạo, thì nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. ĐBSH và ĐBSCL là 2 vựa lúa lớn nhất của cả nứơc. Chỉ tính riêng 2 vùng này, sản lượng lúa đã chiếm khoảng 70 % tổng sản lượng lúa cả nước. Tuy nhiên sản lượng lúa trong 4 năm trở lại đây biến động thất thường hơn so với giai đoạn trước, đặc biệt là đối với các vùng ĐBSH và ĐBSCL. Chương II. Thực trạng sản xuất lúa gạo của huện Quỳnh phụ. I.Vị trí của cây lúa trong diện tích gieo trồng cây hàng năm của huyện. Cây lúa chiếm diện tích hết sức quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trong sản xuất trồng trọt nói riêng của huyện Quỳnh Phụ. Cây lúa cung cấp hầu hết nhu cầu lương thực trong sinh hoạt và trong chăn nuôi của người dân nơi đây. Mặc dù cây lúa không mang lại hiệu quả cao nhưng lại được hết sức chú trọng trong sản xuất, đã có rất nhiều giải pháp và thay đổi nhiều phương thức sản xuất nhằm nâng cao năng xuất và hiệu quả kinh tế của cây lúa trong địa bàn huyện. Sở dĩ có điều này là do trong tổng diện tích cây trồng thì cây lúa chiếm ưu thế hơn, hơn thế nữu lúa đã được thâm canh từ rất lâu đời trên mảnh đất Quỳnh Phụ, chất đất nơi đây phù hợp nhất với cây lúa còn các loại cây màu khác thì ít phù hợp. Chủng loại cây trồng ở địa bàn huyện rất đa dạng và phong phú, được chia thành những nhóm cây chủ yếu sau: cây lúa, nhóm cây màu lương thực, nhóm cây có chất bột, cây công nghiệp, cây thực phẩm, rau đậu và các loại cây hàng năm khác. Trong đó cây lúa chiếm ưu thế hơn hẳn các loại cây trồng khác và các loại cây này có sự chuyển dịch theo nhiều hướng khác nhau. Cây lúa là cây trồng chủ lực đối với ngành trồng trọt. Phần lớn diện tích ngành trồng trọt là của cây lúa: năm 2005 là 24028 ha giảm so với năm 2004 là 0,311%, năm 2006 là 23949 ha giảm so với năm 2005 là 0, 33%. Năm 2007 diện tích lúa cả năm là 23913 ha giảm 36 ha do chuyển dịch diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản và trồng cây màu có giá trị kinh tế cao hơn. Tổng diện tích gieo trồng cả năm 2007 đạt 32306 ha tăng 863 ha so với năm 2006, chủ yếu là tăng diện tích cây trồng cây vụ đông và các loại rau màu. Lúa trên địa bàn huyện được gieo cấy làm hai vụ chính, vụ xuân và vụ mùa. Diện tích gieo trồng của hai vụ gần như tương đương nhau và không chênh lệch lớn, hai vụ lúa kể trên trong 3 năm qua đều giảm nhẹ. Bình quân mỗi năm vụ xuân giảm 0,5% trong khi đó vụ mùa giảm 0,6%. Tuy diện tích gieo trồng lúa trong những năm qua giảm nhưng vị thế của cây lúa trong gieo trồng cây hàng năm của huện vẫn đứng hàng đầu. Cây công nghiệp ngắn ngày trên địa bàn huyện rất đa dạng và phong phú bao gồm các loại cây: cây đay, cói, lạc, vừng, đậu tương, thuốc lào. Tuy đa dạng như vậy nhưng chúng chiếm phần diện tích gieo trồng rất khiêm tốn. Năm 2004 có 1396 ha diện tích gieo trồng chiếm 4,44% diện tích gieo trồng, năm 2005 là 1338 ha chiếm 4,24%, năm 2006 là 1331 ha chiếm 4,24%, bình quân mỗi năm giảm 0,24%. Nguyên nhân của tình trạng này là do đất màu dần trở thành đất ở và đất làm trang trại. Trong nhóm cây công nghiệp thì đậu tương được gieo trồng chủ yếu, bình quân trong vòng 3 năm tăng 2,6%. Cây đậu tương rất được chuộng trong sản xuất cây vụ đông của nông dân trong huyện bởi vì kĩ thuật chăm sóc đơn giản, đầu tư thấp và có hiệu quả cao hơn hăn so với cây trồng vụ đông khác. Cây lạc có diện tích lớn thứ hai trong tổng diện tích gieo trồng cây công nghiệp: năm 2004 gieo trồng 275 ha chiếm 19,7% tổng diên tích gieo trồng cây công nghiệp, đến năm 2006 chỉ còn 168 ha, năm 2007 chỉ còn 151 ha. Diện tích cây lạc giảm một cách nhanh chóng là do lạc không đem lại hiệu quả cao và người nông dân chuyển sang trồng đậu tương. Cây công nghiệp còn lại chiếm cơ cấu và sản lượng nhỏ và luôn có sự biến động, sự biến động này không ảnh hưởng nhiều đến giá trị sản xuất ngành trồng trọt. Cây thực phẩm các loại nhiều năm qua phát triển không ngừng trừ năm 2005 lắng xuống do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt làm rau màu sinh trưởng, phát triển kém. Năm 2004 diện tích của nhóm cây này là 2835 ha chiếm 9,03 % tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm, năm 2005 là 2760 ha giảm so với năm 2004 là 2,65% tức 75ha, đến năm 2006 tăng lên 3124 ha tăng so với năm 2005 là 13,19 ha, bình quân trong vòng 3 năm tăng 4,9%. Cây thực phẩm rau màu ngày càng có giá trị kinh tế cao và đem lại nguồn thu đáng kể cho nông dân, đặc biệt nhóm này được sản xuất phổ biến ở vụ đông. Ở nhiều xã như Quỳnh Hải, Quỳnh Hội có trình độ thâm canh cây vụ đông rất cao. II. Diện tích, năng xuất, sản lượng lúa của huyện các năm gần đây. Cây lúa được thâm canh từ rất lâu đời trên mảnh đất Quỳnh Phụ, nó gắn bó mật thiết với người dân nơi đây, nó đi sâu vào tâm lý của họ nhất định phải sản xuất lúa nếu không thì không có đủ lương thực hoặc có tiền đi mua thì cũng không được hạt gạo ngon. Trải qua rất nhiều lần thay đổi giống, thay đổi phương thức sản xuất để nâng cao năng xuất cũng như hiệu quả kinh tế của cây lúa, hiện nay trên địa bàn huyện đang sử dụng các giống phổ biến nhu:giống dài ngày là Xi23, 13/2, 8865, nếp thơm; giống ngắn ngày là Q5, TBR1, Khang dân 18, Khâm dục, N87, N97, hương thơm 1, b