Thực trạng Việt Nam gia nhập WTO và một số giải pháp

- WTO là từ viết tắt của World Trade Organization, tổ chức thương mại thế giới. - Ngày thành lập: 1/1/1995 - Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sỹ - Thành viên: 150 nước (tính đến ngày 7/11/2006) chiếm khoảng 90% dân số thế giới, 95% GDP và 95 % giá trị thương mại toàn cầu. - Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. - Cơ cấu tổ chức: GATT chỉ là một hiệp định thương mại đa phương, không phải là một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp.

doc20 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7921 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng Việt Nam gia nhập WTO và một số giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Gia Nhập WTO Nhóm 7 Phần 1. Tổng quan WTO và tiến trình gia nhập của VN Tổng quan WTO Giới thiệu chung về WTO WTO là từ viết tắt của World Trade Organization, tổ chức thương mại thế giới. Ngày thành lập: 1/1/1995 Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sỹ Thành viên: 150 nước (tính đến ngày 7/11/2006) chiếm khoảng 90% dân số thế giới, 95% GDP và 95 % giá trị thương mại toàn cầu. Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. Cơ cấu tổ chức: GATT chỉ là một hiệp định thương mại đa phương, không phải là một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại  Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp. Chức năng Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại. Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác Các nguyên tắc cơ bản Không phân biệt đối xử Đãi ngộ quốc gia MFN: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tương tự trong nước. Đãi ngộ tối huệ quốc NT: Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO. Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v.. Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh. Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, công bằng Nguyên tắc ưu đãi Tiến trình gia nhập WTO của VN 1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. 31/1/1995: Đại hội đồng WTO đã thành lập Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập  8/1996: Việt Nam gửi tới Ban thư ký WTO "Bị Vong lục về Chế độ ngoại thương Việt Nam". Sau đó, Ban Công tác đã tổ chức 9 phiên họp để đánh giá tình hình chuẩn bị của Việt Nam và tạo điều kiện để Việt Nam trực tiếp giải thích chính sách. Đầu 2002, Việt Nam đã gửi Bản chào ban đầu về thuế quan và Bản chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán từ năm 2002 - 2006. 4/2004: Bản chào 4 với những cam kết đột phá 10/2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất. 2005: Năm bản lề của đàm phán song phương (kết thúc được đàm phán song phương với 20 đối tác và đạt tiến bộ rất quan trọng trong đàm phán song phương với Hoa Kỳ) Sang đầu năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay sau đó là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại. 13/5/2006: Kết thúc đàm phán song phương thứ 13 với Mỹ tại Washington - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. 26/10/2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng. Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7/1998 đến tháng 10/2006. 7/11/2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Phần 2. Cơ hội - Thách thức và Giải pháp Cấp độ quốc gia Nền kinh tế hiện nay của tất cả các quốc gia đều hướng về một nền kinh tế mở và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và nó là một tất yếu khách quan phát triển của một nền kinh tế hiện đại. Dù nước lớn hay nước nhỏ, bất kể nền kinh tế nào dù lớn đến đâu cũng không thể tự mình đảm đương hết tất cả các quá trình kinh tế. Chính vì thế, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế tất yếu cho mọi quốc gia. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng đang tích cực hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới một cách rõ nét. Từ một nền kinh tế đóng của những năm trước đổi mới 1986, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể để chuyển biến nền kinh tế thành một nền kinh tế mở, hội nhập vào thị trường quốc tế rộng lớn. Gia nhập WTO chính là một minh chứng rõ nét nhất cho những nỗ lực cũng như thành tựu và tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam. Hội nhập kinh tế thế giới có thể ví như một chiếc thuyền nhỏ từ khe suối con sông nhỏ hẹp đi ra biển cả, đại dương. Đại dương rất rộng lớn nên thuyền có thể tự do đi ngược đi xuôi rất thuận lợi. Nhưng đại dương cũng là nơi nguy hiểm hơn rất nhiều lần so với con sông, con suối. Cũng tương tự như thế, bất kể nền kinh tế hội nhập nào cũng có được những thuận lợi và phải đối mặt với những khó khăn của riêng mình. Gia nhập WTO là gia nhập sân chơi chung, “đại dương” của cả 150 nước thành viên WTO nên đương nhiên là đi kèm với nó sẽ là những cơ hội và thách thức. Có thể nói cơ hội hay thách thưc luôn đi cùng nhau và nhiều khi chúng gắn chặt lẫn nhau hoặc chuyển biến lẫn nhau. Nếu chúng ta biết tận dụng thì những khó khăn có thể trở thành động lực để ta có thể cải thiện điểm yếu của mình và phát triển. Cơ Hội: Để nói về cơ hội đối với nền kinh tế nước ta, có rất nhiều cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Phần trình bày này sẽ đi từ góc độ kinh tế vĩ mô hay cấp độ quốc gia. Do vậy, sẽ có 4 cơ hội rõ ràng nhất. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang 149 nước thành viên (hiện tại) và cả các thành viên gia nhập tiếp sau Việt Nam và với tư cách là một thành viên bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Tại sao lại nói rằng gia nhập WTO, nước ta có khả năng mở rộng được thị trường xuất khẩu? Đó là do: Thứ nhất, khi đã là thành viên của WTO, việc thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên sẽ không bị hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu. Số lượng được cung ứng sẽ dựa trên nhu cầu của người dân nước đó đối với hàng hóa nước ta chứ không phải như trước đây, rất nhiều mặt hàng như may mặc, giày da… đều phải chịu hạn ngạch nhập khẩu, dẫn đến việc các doanh nghiệp phải mua bán quota để có thể xuất khẩu. Thứ hai, khi đã là thành viên WTO, hàng hóa xuất khẩu của Việt nam sang thị trường các nước thành viên khác cũng sẽ ít bị vấp phải hàng rào thuế quan. Theo các chuyên gia kinh tế, khi chưa là thành viên của WTO, thuế suất áp dụng đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường có thể lên tới 30-40%; thậm chí nếu bị cáo buộc bán phá giá, có khi lên tới 50-70%. Nhưng, khi đã là thành viên của WTO, mức thuế này sẽ hạ xuống còn 0-5% (nếu không có tranh chấp thương mại). Như vậy, có thể thấy rằng, gia nhập WTO sẽ rộng mở cánh cửa xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Không những thế, chúng ta còn được bảo vệ bởi các quy chế của WTO nếu xảy ra tranh chấp thương mại. là một thành viên bình đảng như cấc thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng các nguyên tắc cơ bản của tổ chức như: nguyên tắc không phân biệt đối xử (Đãi ngộ quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc), tự do thương mại, các quy chế, quy định thương mại phải được công bố công khai, thực hiện ổn định… Những điều này rất có lợi cho Việt Nam mỗi khi xảy ra những tranh chấp thương mại với các thành viên khác, đặc biệt là những nước lớn vì Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ. Trước đây khi xảy ra các tranh chấp này như những vụ kiện bán phá giá cá da trơn, hàng may mặc (cùng với Trung Quốc)…, thông thường nước ta thường là người phải chịu thiệt thòi, phải bắt buộc chấp nhận những mức thuế trừng phạt do những nền kinh tế lớn áp đặt. Ngày nay với việc được bảo vệ trong những quy định của WTO, lợi ích của chúng ta sẽ được bảo đảm nhiều hơn trong các cuộc tranh chấp thương mại này. Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng hoàn thiện và thông thoáng. Hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường. Như đã nói ở trên, hội nhập kinh tế quốc tế như là con tàu đi vào đại dương. Đại dương là của rất nhiều người và nó có những luật lệ chung mà mọi chiếc thuyền muốn hoạt động được trong đó đều phải tuân theo. Do vậy, nền kinh tế muốn hội nhập được phải tuân thủ những luật lệ ấy, không thể tùy tiện dùng cách hành xử theo thói quen của mình. Tất cả các lĩnh vực từ văn bản pháp quy, bộ máy hành chính, tổ chức doanh nghiệp… cũng phải cải thiện để phù hợp với các tiêu chuẩn mà WTO đưa ra. Chính từ nguyên nhân đó mà chính phủ khi ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô trong thời gian tới sẽ phải luôn xem xét để không vi phạm những nguyên tắc chung của tổ chức WTO. Điều này giúp cho việc định hướng xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô sẽ càng ngày càng trở nên thống nhất với những luật lệ và quy tắc chung trong thương mại quốc tế, giúp cho môi trường đầu tư đối với những nhà đầu tư nước ngoài sẽ thông thoáng và dễ dàng hơn rất nhiều. Chính sự thông thoáng và minh bạch đó bản thân đã là một sự hấp dẫn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Không chỉ có môi trường đầu tư được cải thiện, nền kinh tế cũng tiến dần tới một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Nền kinh tế hiện nay chủ yếu là gồm những nước có nền kinh tế theo cơ chế thị trường, do vậy những chuẩn mực chung thông nhất trong nền kinh tế thế giới cũng là những quy luật của nền kinh tế thị trường. Chúng ta tôn trọng và không xâm phạm những quy tắc chung ấy chính là ta đã gián tiếp thực hiện và tôn trọng sự tồn tại của những quy luật kinh tế thị trường. Do vậy, cơ chế thị trường điều tiết nền kinh tế ngày càng rõ nét hay thể chế thị trường trong nền kinh tế nước ta sẽ ngày càng được hoàn thiện. Huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để có thể phát triển và phát triển bền vững nền kinh tế. Nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo động lực phát triển kinh tế. Quá trình phát triển nền kinh tế nhất là trong thời đại hiện nay đòi hỏi rất nhiều những nguồn lực khác nhau cả về vốn, kĩ thuật và nhân lực. Hiện nay, chúng ta không đơn thuần chỉ có những nguồn lực trong nước có thể được dùng để phát triển kinh tế mà với sự tự do di chuyển của các nguồn lực trên phạm vi thế giới, chúng ta hoàn toàn có thể huy động thêm những nguồn lực nước ngoài trong công cuộc phát triển kinh tế. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc sẽ gặp ít những rào cản hơn trước, di chuyển dễ dàng hơn nên việc huy động những nguồn lực nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu phát triển sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Chẳng hạn như hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp Việt Nam có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng như các phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhờ đó mà các doanh nghiệp của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm các chi phí về nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm, đồng thời cũng đã tạo ra được những sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng và mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm quản lý cho người điều hành quá trình sản xuất. Kết quả là các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã vào Việt Nam ngày một tăng trong hơn 10 năm trở lại đây. Riêng 4 tháng đầu năm 2006, con số này là trên 2,3 tỷ đô la Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Chủ động hơn trong việc tham gia xây dựng các chính sách thương mại tòa cầu như các thành viên khác và bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của đất nước, của doanh nghiệp và người lao động. Là một thành viên bình đẳng như những thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ được góp tiếng nói của mình trong việc đưa ra những quyết sách chung của WTO. Cũng nhờ đó mà nước ta có thể chủ động hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình trước những chính sách không hợp lí và bình đẳng giữa tất cả các quốc gia thành viên. Việt Nam có thể bỏ quyền phủ quyết đối với những quyết định bất hợp lí trên. Điều này khác hoàn toàn so với trứơc đây khi chúng ta chưa là thành viên, chúng ta phải chấp nhận mọi quyết định áp đặt. Thách thức Đi đôi với những cơ hội kể trên là những thách thức không hề nhỏ. Hiện nay, rất nhiều ngành kinh tế đang lo lắng trước áp lực cạnh tranh của các nước, đặc biệt là những ngành nông nghiệp, công nghiệp… Cũng có 4 thách thức chủ yếu đối với nền kinh tế nước ta sau khi gia nhập tổ chức WTO. Sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh Khi gia nhập WTO, chúng ta phải tuân thủ những nguyên tắc chung của tổ chức, cắt giảm các mức thuế xuống còn từ 0-5%, đói xử với hàng hóa trong nước và nước ngoài phải bình đẳng. Nói một cách khác, chúng ta phải mở toang cửa đối với hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Một khi không còn hàng rào thuế quan bảo hộ, sức ép cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài sẽ thể hiện rõ rệt nhất. Sức ép cạnh tranh mạnh thể hiện trên cả 3 cấp độ : sản phẩm – sản phẩm; doanh nghiệp – doanh nghiệp; nhà nước – nhà nước. năng lực cạnh tranh nói chung của toàn bộ nền kinh tế vẫn được đánh giá là yếu kém nên nếu không có những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền sản xuất trong nước thì Việt Nam sẽ thua ngay trên chính sân nhà chứ chưa nói dến thị trường nước ngoài. Cạnh tranh không chỉ trong việc giảm thuế quan bảo hộ mà trên thực tế, chúng ta còn thiếu kiến thức và thông tin về các tiêu chuẩn quốc tế (chất lượng sản phẩm, quy trình quản lý chứng nhận chất lượng sản phẩm, vấn đề bảo vệ môi trường...) cũng như về các cách thức tiếp cận thị trường và các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh từ các nước nhập khẩu. Điều này rất dễ làm sản phẩm của nước ta không theo kịp những tiêu chuẩn chung của thê giới và rất dễ vấp phải những hàng rào bảo hộ mới như hàng rào kỹ thuật… sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt nam trên thị trường quốc tế. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa Toàn cầu hóa đem lại cơ hội cho tất cả mọi người nhưng không phải ai cũng có thể nắm bắt và tận dụng được cơ hội giống nhau. Tùy thuộc vào năng lực của từng người mà mức độ thành công hay thất bại của mỗi người sẽ khác nhau. Đứng trên phương diện toàn xã hội, điều này làm cho một bộ phận dân cư sẽ không những không được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế quốc tế mà sẽ còn phải chịu thiệt thòi; một bộ phận doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng rõ giữa các vùng, các miền ngày càng tăng là một tác động tiêu cực cần phải được giải quyết để đảm bảo an ninh trật tự, công bằng xã hội. Phụ thuộc biến động của nền kinh tế thế giới Chấp nhận một nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập chung vào sân chơi lớn là thị trường thế giới đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Giờ đây mỗi quốc gia đang dần trở thành một mắt xích trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Những biến động từ bất kì một mắt xích nào cũng đều có thể dẫn đến những biến động lớn đối vớ những mắt xích còn lại. tác động này sẽ càng lớn và càng rõ rết đối với những nền kinh tế nhỏ và đang phát triển như Việt Nam. Bất kì một diễn biến bất thường nào từ trong dây chuyền sản xuất ấy đều có thể ảnh hưởng tiêu cực lớn đến tình hình phát triển kinh tế chính trị, xã hội của nước ta. Nếu không kiểm sóat và xử lý đúng sẽ dẫn đến rối loạn thị trường, thậm chí khủng hoảng kinh tế. Chính vì vậy nên chúng ta cần có những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực trên. Chất lượng nguồn nhân lực Về chất lượng của nguồn nhân lực thì đây cũng là một điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam. Hiện tại, chát lượng nguồn nhân lực của nước ta hãy còn thấp, trình độ lao động chưa thể đảm bảo đáp ứng được với nền sản xuất với dây chuyền công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng có những bất cập. Các chương trình đào tạo tại bậc đại học hiện nay nhìn chung đều bị đánh giá là nặng về lí thuyết, nguồn nhân lực sau đào tạo thường không đáp ứng được nhu cầu thực tế cuả công việc mà thường là cần phải được đào tạo lại mới có thể làm đuợc việc. Nguồn nhân lực đối với bất kể nền kinh tế nào, dù lớn hay nhỏ, đếu có vai trò rất quan trọng tới sự phát triển của nền kinh tế đó. Chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ trở thành sức ì và lực cản đối với sự phát triển của nền kinh tế. Giải pháp Hoàn thiện hệ thống luật và nhận thức rõ vai trò của mình Đối với Nhà nước, điều cấp thiết là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với thông lệ của WTO, bao gồm cả bốn nội dung: Luật chơi, người chơi, cách chơi và sân chơi. Trong đó, “luật chơi” - là hệ thống pháp lý và các chuẩn mực; “người chơi” - là chủ thể kinh tế thị trường chính, bao gồm cả tập thể, cá nhân, các thành phần kinh tế; “cách chơi” - chính là cơ chế để thực thi quy tắc; và “sân chơi” - các thị trường, yếu tố cơ bản phải gấp rút hoàn thành. Vai trò chủ yếu của nhà nước là xây dựng môit trường vĩ mô để các doanh nghiệp trong và ngòai nước có thể hoạt động và hoạt đông thuận lợi trong đó. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải phân định được vai trò quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không phải là chủ thể tham gia hoạt dộng trực tiếp trên thi trường mà là người quản lý và điều tiết thị trường. Các chính sách thúc đẩy phát triển công nghệ Năng lực cạnh tranh phụ thuộc rất hiều vào trình độ của công nghệ sản xuất. Trong bối cảnh hiện nay, công nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, nhà nước cần phải có những chính sách thích hợp để khuyến khích việc chuyển giao công nghệ từ các quốc gia phát triển như Nhật, Mĩ… Đi tắt đón đầu về công nghệ để có thể nâng cao trình độ của công nghệ sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên việc chuyển giao công nghệ chỉ là một giải pháp ngoại sinh, Nhà nứoc cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của nền khoa học kĩ thuật trong nước. Những hoạt động nghiên cứu và triển khai R&D cần phải được đẩy mạnh để có thể làm chủ được công nghệ ngoại nhập và cải tiến, tạo ra những đột phá công nghệ mới. Kết hợp giữa các viện nghiên cứu với các doanh nghiệp sản xuất để nhanh chóng ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Sửa đổi trợ cấp Dỡ bỏ hàng rào thuế quan bảo hộ nhưng đồng thời các nước thành viên lại xây dựng nên những hàng rào kỹ thuật, phi thuế quan để bảo hộ cho một số ngành mà quốc gia đó mong muốn bảo hộ. Đồng thời, các quốc gia vẫn tìm nhiều cách để hỗ trợ cho những ngành sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh của những ngành đó. Đó là một thực tế đang diễn ra. Trợ cấp hay hỗ trợ từ chính phủ vẫn có nhưng dưới nhiều những hình thức khác nhau. Hỗ trợ từ chính phủ là cần thiết với nhiều ngành nhưng vấn đề là ở chỗ phải xây dựng được những hỗ trợ hợp lí và phù hợp, không vi phạm những nguyên tắc
Luận văn liên quan