Tiểu luận Cải cách hệ thống thuế Việt Nam hậu WTO

Cải cách hệ thống thuế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế, nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế WTO vào ngày 07/11/2006. Theo đó, khó khăn lớn đầu tiên đối với hệ thống thuế của Việt Nam là phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Phải sử dụng thuế như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các DN, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là chiến lược cải cách toàn diện, đồng bộ và thống nhất cả về hệ thống chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế hiện hành nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân của Đảng và Nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đó cũng chính là lý do đề tài “Cải cách hệ thống thuế Việt Nam hậu WTO” ra đời nhằm làm rõ hơn một số nội dung liên quan đến vấn đề này.

pdf24 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2067 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cải cách hệ thống thuế Việt Nam hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Môn Quản Trị Ngân Hàng Cải cách hệ thống thuế Việt Nam hậu WTO GV hướng dẫn:PGS. TS Trần Huy Hoàng Nhóm: Lớp: Ngân hàng Đêm 6- K20 TP.Hồ Chí Minh- Tháng 05 năm 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách hệ thống thuế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế, nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế WTO vào ngày 07/11/2006. Theo đó, khó khăn lớn đầu tiên đối với hệ thống thuế của Việt Nam là phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Phải sử dụng thuế như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các DN, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là chiến lược cải cách toàn diện, đồng bộ và thống nhất cả về hệ thống chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế hiện hành nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân của Đảng và Nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đó cũng chính là lý do đề tài “Cải cách hệ thống thuế Việt Nam hậu WTO” ra đời nhằm làm rõ hơn một số nội dung liên quan đến vấn đề này. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài được thực hiện hướng đến các mục tiêu: (i) Nguyên tắc cải cách hệ thống thuế. (ii) Phân tích thực trạng hệ thống chính sách thuế và công tác quản lý thuế, từ đó chỉ ra những thành tựu đã đạt được và hạn chế còn tồn tại trong quá trình cải cách hệ thống thuế Việt Nam. (iii) Mục tiêu của việc cải cách chính sách thuế, thuận lợi và khó khăn gặp phải, từ đó định hướng và đề xuất những biện pháp cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn hậu WTO. 3. Phương pháp nghiên cứu Khảo sát, thống kê các tài liệu thứ cấp Do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong ý kiến đóng góp ý kiến của thầy, cô, các bạn và những người quan tâm đến vấn đề này để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Người thực hiện LÊ THỊ THÚY VY PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NGUYÊN TẮC CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ 1. Nguyên tắc cải cách hệ thống thuế Không có một hệ thống thuế nào được xem là hoàn hảo và lý tưởng duy nhất cả. Để đánh giá một hệ thống thuế mới người ta thường đặt ra ba tiêu chí: + Hệ thống thuế có hiệu quả kinh tế hơn hay không? + Hệ thống thuế có công bằng về mặt xã hội hơn không? + Hệ thống thuế có tạo nhiều nguồn thu ngân sách ròng hơn không? Trong khi những tiêu chí đánh giá vẫn không đổi thì điều gì là tốt nhất sẽ thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào cấu trúc thu chi ngân sách của quốc gia, tức là một hệ thống thuế có tính động thay vì tĩnh. 1.1 Việc cải cách thuế phải dựa trên nguyên tắc mức thuế suất thấp và cơ sở thuế rộng Do mất mát xã hội vô ích tỷ lệ với bình phương thuế suất nên một mức thuế suất thấp hơn sẽ làm giảm tổn thất phúc lợi xã hội. Thuế suất giảm còn làm giảm các hành vi trốn, tránh thuế thông qua các hoạt động dịch chuyển thu nhập hay chuyển giá - những hành vi làm thất thu thuế, tăng chi phí quản lý và tuân thủ thuế. Việc giảm thuế suất phải đi đôi với định nghĩa lại cơ sở thuế trên cơ sở rộng hơn nhằm có thể tăng doanh thu thuế ròng. Bởi vì, mục đích chính của chiến lược cải cách thuế phải là tối đa hóa nguồn thu, trong khi vấn đề công bằng và phúc lợi xã hội còn được giải quyết thông qua chính sách chi tiêu của chính phủ. 1.2 Qúa trình cải cách thuế là phải sắp xếp thứ tự ưu tiên Thứ tự này đảm bảo mục tiêu thu ngân sách phải là thứ yếu trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, trong dài hạn, mục tiêu cuối cùng vẫn phải là tăng doanh thu thuế ròng. Có một số tiêu chí để đánh giá khả năng tạo nguồn thu thuế ròng. Chẳng hạn, nếu so với nền kinh tế người ta thường sử dụng các chỉ tiêu: tỷ số thuế, độ nổi thuế, độ co giãn của thuế, và tính ổn định của thuế; nếu so với tiềm năng: năng lực thuế, nỗ lực thuế; nếu so với hiệu quả hành chính: tỷ lệ thu, chi phí của tỷ lệ thu, thu nợ thuế. Bên cạnh đó, một chính sách thuế mới cũng phải trên cơ sở đơn giản hóa, từ vấn đề quy trình thủ tục đến công tác quản lý, tuân thủ và thực thi thuế. Chiến lược cải cách thuế cần phải tính toán, cân nhắc một cách thận trọng và cụ thể. Các cuộc cải cách vội vã thường dẫn đến thất bại, gây khó khăn hơn cho những đợt cải cách trong tương lai. Các thành công bước đầu mặc dù ở một quy mô nhỏ nhưng tăng được doanh thu cũng sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng phạm vi cải cách thuế và làm tăng cơ hội thành công. Tăng tối đa khả năng thu tại nguồn, tức thiết kế một quai thuế vững chắc, sẽ đảm bảo hạn chế tối thiểu tình trạng thất thoát nguồn thu. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ Từ khi hệ thống thuế Việt Nam ra đời đã trải qua hai lần cải cách. Cải cách bước 1: giai đoạn 1990 - 1995, cải cách bước 2: giai đoạn 1996 - 2000. 2.1 Giai đoạn 1990 - 1995 Đây là giai đoạn tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, cả nước từng bước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Vì vậy, chính sách thuế phải đáp ứng được các yêu cầu cấp bách của chính sách đổi mới kinh tế một cách toàn diện và sự phát triển của kinh tế thị trường. Thực hiện cải cách thuế trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành một hệ thống chính sách thuế phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo cơ sở và động lực phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát huy cao độ nội lực để phát triển kinh tế. Hệ thống chính sách thuế đã được áp dụng thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế, tạo sự công bằng về nghĩa vụ thuế đối với tất cả các ĐTNT. Tổ chức ngành Thuế cũng được tổ chức lại thành một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở thống nhất 3 hệ thống thu trước đây là Cục thu quốc doanh, Cục thuế công thương nghiệp và Vụ thuế nông nghiệp. Hệ thống thuế Nhà nước chịu sự chỉ đạo của Bộ Tài chính, cơ quan Thuế địa phương còn chịu sự chỉ đạo song trùng của UBND cùng cấp trên một số mặt công tác. 2.2 Giai đoạn 1996-2000 Đây là giai đoạn thực hiện cải cách thuế trong bối cảnh nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trư¬ờng định hư¬ớng Xã hội chủ nghĩa, đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng quan hệ hợp tác với các nư¬ớc trong khu vực và thế giới, tham gia hội nhập quốc tế phải thực hiện bảo hộ có chọn lọc. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế đa dạng hoá gồm nhiều loại hình và thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hệ thống chính sách thuế qua cải cách bước 1 vẫn còn những tồn tại nhất định, chưa đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, cuộc cải cách hệ thống thuế bước 2 được thực hiện nhằm khắc phục những nhược điểm, tồn tại của cải cách hệ thống thuế bước I, phát huy vai trò của công cụ thuế trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khuyến khích SX- KD phát triển, đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý cho NSNN, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích tụ vốn để đầu tư, phát triển và nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài. Chính sách thuế tiến tới đơn giản, ổn định, công bằng. 2.3 Những kết quả đạt được Nhìn chung, trong bối cảnh kinh tế xã hội trong nước, quốc tế có nhiều yếu tố không thuận lợi nhưng công cuộc cải cách hệ thống thuế đã góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Thu ngân sách ngày càng tăng lên; phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường và thực hiện đúng lộ trình hội nhập quốc tế. Cụ thể như sau: 2.3.1. Về chính sách thuế - Hình thành một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế và từng bước thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách thuế gồm: 9 sắc thuế cơ bản (thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất). Ngoài ra, còn một số loại thu dưới hình thức phí và lệ phí. - Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. + Góp phần đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). + Thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%. + Thúc đẩy xuất khẩu, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm: bình quân hàng năm trên 21% gấp gần 3 lần mức tăng trưởng GDP, sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 40% năm 2000. Nhờ xuất khẩu tăng, về cơ bản đã bảo đảm được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên nhiên vật liệu, hàng hoá cần thiết cho nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. - Hệ thống chính sách thuế được ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh tạo cơ sở pháp lý cao để động viên một phần thu nhập của doanh nghiệp, dân cư vào Ngân sách Nhà nước làm cho dự toán thu ngân sách Nhà nước luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra. Nhờ đó đã bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, dành một phần tăng chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, góp phần kiềm chế lạm phát ở mức độ cho phép. Tổng thu thuế và phí luôn hoàn thành vượt mức dự toán thu hàng năm được Quốc hội thông qua và có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm: Năm 2000 tăng 13,7 lần so với năm 1990. Số thu về thuế và phí trong tổng thu Ngân sách Nhà nước năm 1990 chỉ chiếm 76,78%, đến năm 2003 đã chiếm 92,9%. Tỷ lệ động viên qua thuế và phí/GDP đã đạt và vượt mục tiêu đề ra: năm 1991 đạt 13,1% GDP, đến năm 2000 đạt 19,7% GDP và đến năm 2003 đạt 21,8% GDP. - Hệ thống chính sách thuế đã xoá bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế trong nước; thu hẹp chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường. - Trong hợp tác quốc tế về thuế đã đạt được các thành tựu chủ yếu là: + Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế đã mở rộng hiểu biết, tích luỹ kinh nghiệm... ứng dụng chính sách thuế tiên tiến và quản lý thuế hiện đại của quốc tế vào hệ thống thuế Việt Nam. Qua đó, hệ thống chính sách thuế Việt Nam từng bước được hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu của hội nhập. + Vừa bảo hộ được sản xuất trong nước, vừa chủ động thực hiện chính sách mở cửa để thu hút đầu tư, tự do hoá thương mại, thực hiện lộ trình cam kết về thuế với các nước ASEAN, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác. + Đã đàm phán và ký Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với 42 nước, tạo cơ sở pháp lý để các nhà đầu tư nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam kinh doanh sinh sống không bị đánh thuế trùng lắp, thực sự được hưởng chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; thu hút các nhà nghiên cứu, các giáo sư, các chuyên gia nước ngoài đầu tư chất sám vào Việt Nam. - Hệ thống chính sách thuế từng bước tiến tới đơn giản, rõ ràng, tạo điều kiện giảm chi phí hành chính thuế cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế. - Tăng cường quản lý hạch toán kinh doanh trong từng doanh nghiệp, thúc đẩy việc tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp. 2.3.2. Về quản lý thuế - Đã hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước ngày càng được củng cố và tăng cường về mọi mặt; chịu sự lãnh đạo song trùng của ngành dọc và cấp uỷ, chính quyền địa phương. Đội ngũ cán bộ quản lý thuế được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý và phẩm chất. Áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế. Do đó hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý thuế ngày càng được nâng cao, góp phần quyết định vào việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán thu Ngân sách Nhà nước hàng năm đã được Quốc hội thông qua. - Công tác quản lý thuế được chuyển từng bước từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ người nộp thuế tự tính, tự khai và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Cơ chế này đã đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế trước pháp luật; cơ quan thuế tăng cường được chức năng tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, đôn đốc thu nộp, kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm về thuế. - Tổ chức quản lý thuế được tổ chức thành 3 bộ phận độc lập: Bộ phận cấp đăng ký mã số thuế, nhận và kiểm tra tờ khai thuế; Bộ phận tính thuế, thông báo nộp thuế và đôn đốc thu nộp thuế; Bộ phận thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về thuế; đã hạn chế được tiêu cực trong công tác quản lý thuế theo kiểu "khép kín" trước đây. Từng bước thực hiện chuyên môn hoá quản lý thuế theo chức năng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế. - Công tác quản lý thuế đã có những chuyển biến tích cực theo hướng rõ ràng, công khai, dân chủ và minh bạch hơn. Từng bước củng cố, mở rộng áp dụng chế độ kế toán hoá đơn chứng từ đối với các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với thành phần kinh tế tư nhân, từ đó tình trạng thất thu Ngân sách đã giảm nhiều so với trước đây. 2.4 Những hạn chế còn tồn tại Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện vào những năm 1990-2000, nhưng hiện nay chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách, sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO.  Hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu tính ổn định, làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó làm mất định hướng của nhà đầu tư, bóp méo sự lựa chọn của người sản xuất và vi phạm một nguyên tắc chung của thông lệ quốc tế là tính rõ ràng và có thể dự đoán trước của hệ thống chính sách thuế. Việc thường xuyên thay đổi trong chính sách thuế, quy định không rõ ràng về phạm vi của các sắc thuế và trong một sắc thuế có quá nhiều thuế suất, nhiều chế độ ưu đãi, miễn giảm khác nhau đã cản trở quá trình hội nhập quốc tế trên các phương diện: khuyến khích xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.  Việc quy định các sắc thuế thiếu tính rõ ràng, còn lẫn lộn trong chức năng của từng sắc thuế, thể hiện ở phạm vi của đối tượng chịu thuế, các mức thuế suất quá cao vì gặp nhiều loại thuế trong một sắc thuế. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt, ngoài chức năng điều tiết tiêu dùng với một số mặt hàng đặc biệt còn đảm đương cả chức năng của thuế VAT, vì đối tượng chịu thuế VAT không áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy, thuế suất cao của thuế tiêu thụ đặc biệt đã gồm thuế VAT. Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất trong nước, nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước (như ô tô, thuốc lá…) dẫn đến vi phạm nguyên tắc của WTO. Mặt khác, có một số mặt hàng tiêu dùng có tính chất xa xỉ lại không thuộc diện điều chỉnh của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên trong biểu thuế nhập khẩu đang được áp dụng mức thuế suất cao, tạo sự hiểu lầm của dư luận quốc tế về thuế nhập khẩu không phù hợp thông lệ quốc tế.  Hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu trong từng sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế không thống nhất với nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Một số mặt hàng nhập khẩu như: phân bón, sắt xây dựng, kính xây dựng, đường… có thuế suất thuế nhập khẩu thấp vì là đầu vào của một số ngành sản xuất, nhưng biện pháp quản lý lại là bảo hộ phi thuế quan (hạn chế số lượng nhập khẩu), rõ ràng là vi phạm quy định của WTO. Một số mặt hàng thuế nhập khẩu quá cao sẽ kính thích sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu; đồng thời cũng sẽ chiếm mất nguồn vốn, lao động, công nghệ của những hoạt động sản xuất hàng hóa khác có hiệu quả cao hơn. Việc kết hợp các mục tiêu của chính sách xã hội trong các sắc thuế xét về khía cạnh xã hội là tốt, tuy nhiên nó thực sự làm chính sách thuế trở nên phức tạp, tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh, ảnh hưởng đến sự minh bạch của hệ thống thuế.  Còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua từng sắc thuế. Trong điều kiện mở cửa hội nhập và tích cực chuẩn bị để tham gia WTO, hệ thống chính sách thuế phải được sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc của tổ chức này, đồng thời phải đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng cường sức cạnh tranh cho các DN trong nước, đồng thời phải có sự bảo hộ hợp lý cho một số ngành then chốt trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ VIỆT NAM HẬU WTO 3.1 Mục tiêu Là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải hướng vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Tuy nhiên, với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính của xã hội, nên vấn đề xuyên suốt của chính sách thuế là phải thực hiện các mục tiêu có tính đặc thù, đó là:  Giữ kỷ luật tài chính tổng thể để lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn thu từ thuế phải có khả năng tài trợ các nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày càng tăng của Chính phủ mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công. Theo tính toán của Bộ tài chính được xác định trong chiến lược phát triển tài chính đến năm 2010, thì tỷ lệ thu NSNN phải ở mức bình quân năm vào khoảng 20- 21% GDP, trong đó thuế, phí và lệ phí đạt 18-19% GDP. Trên cơ sở đó, đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước vào khoảng 24-25% GDP, khống chế bội chi ngân sách nhà nước 4-5%GDP; bù đắp bội chi ngân sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5% GDP.  Nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập và cam kết quốc tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững và thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo.  Thuế phải là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực. Thuế đi vào trong đời sống kinh tế - xã hội trên cơ sở thực thi một chính sách thuế minh bạch, công bằng, có tính luật pháp cao. 3.2 Những thuận lợi - Hệ thống chính trị ổn định, Đảng và Nhà nước quyết tâm đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính – tiền tệ nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững
Luận văn liên quan