Tiểu luận Chiến lược phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020

Phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Trong những năm qua, mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KH&CN trong cả nước, tiềm lực KH&CN đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.Tuy nhiên, trình độ KH&CN của nước ta hiện nay còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của KH&CN và kinh tế tri thức trên thế giới. Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH&CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

doc23 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chiến lược phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 LỚP: BỒI DƯỠNG QLNN NGẠCH CHUYÊN VIÊN KHÓA: K23CV Hà Nội – 2011 MỞ ĐẦU Phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Trong những năm qua, mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KH&CN trong cả nước, tiềm lực KH&CN đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.Tuy nhiên, trình độ KH&CN của nước ta hiện nay còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của KH&CN và kinh tế tri thức trên thế giới. Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH&CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong giai đoạn tới (2010 - 2020, tầm nhìn 2030), khoa học và công nghệ cần ưu tiên nhằm vào những mục tiêu và phương hướng phát triển nào? Có nhiều yêu cầu phải đáp ứng, trong đó nổi lên hàng đầu là góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng với việc thâm dụng vốn, tài nguyên, lao động giản đơn và lao động chất lượng thấp chuyển mạnh sang tích cực phát triển theo chiều sâu mà chủ yếu là sử dụng và phát huy các yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ là quan trọng nhất. Trong từng ngành, lĩnh vực, từng vùng của nền kinh tế đều có không ít những vấn đề, những công việc cần và có thể giải quyết có hiệu quả cao, một khi ứng dụng tốt khoa học, công nghệ, trọng tâm là phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh; thật sự gắn nghiên cứu khoa học, công nghệ với đào tạo và sản xuất kinh doanh, làm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cùng với đổi mới, nâng cấp các ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ, cần coi trọng đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp và nông thôn để tạo một chuyển biến mạnh mẽ trong sự phát triển của khu vực này. Công nghệ sinh học (CNSH) được coi là làn sóng thứ năm trong lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ, và đã trải qua các giai đoạn phát triển sau: CNSH truyền thống như các hoạt động chế biến thực phẩm (rượu, giấm, sữa chua,...), diệt khuẩn, ức chế vi sinh vật có hại, v.v...; CNSH cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm của công nghệ vi sinh (cồn, bột ngọt, các axit amin, các axit hữu cơ, chất kháng sinh, các loại vaccin, kháng độc tố, các kit chuẩn đoán bệnh, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón sinh học...); CNSH hiện đại chỉ mới xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. CNSH hiện đại sử dụng các kỹ thuật trao đổi, sửa chữa, tái tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ phân tử để tạo ra những loại sinh vật mới hoặc bắt các sinh vật này tạo ra các protein hay các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng không tạo ra được. Ở Việt Nam, CNSH hiện đại tuy mới phát triển song đã được Nhà nước quan tâm đầu tư. Tuy nhiên hiện nay ngành CNSH nước ta chưa thực sự phát triển, đội ngũ nhân lực ngành CNSH chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, CNSH đòi hỏi sự ứng dụng cao trong công tác nghiên cứu và thực nghiệm. Vì vậy, sự cần thiết phải đầu tư chiều sâu và xây dựng một chiến lược phát triển Công nghệ sinh học trong giai đoạn tới 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và 2050, nhằm từng bước đưa nền khoa học công nghệ của Việt nam nói chung cũng như Công nghệ sinh học nói riêng phát triển ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới.  1. BỐI CẢNH, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM 1.1. Bối cảnh quốc tế a) Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ Cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và KH&CN, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến. Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng cách phát triển. b) Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia và từng doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi. 1.2. Bối cảnh trong nước Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm nền tảng cho giai đoạn phát triển mới: nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, liên tục; tình hình chính trị, xã hội ổn định; xu thế dân chủ hoá, xã hội hoá ngày càng mở rộng; đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt; quan hệ hợp tác quốc tế được cải thiện. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định con đường đổi mới theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết thực hiện các thoả thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích khu vực dân doanh, hỗ trợ mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ; đẩy mạnh cải cách hành chính, v.v... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc đầu tư phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN). Những công nghệ sản xuất mới, hiện đại đã và sẽ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, giúp chủ động nguồn cung trong nước, thay thế nhập ngoại, giảm giá thành, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá (CNH-HĐH) và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của nước ta đã xác định mục tiêu phát triển tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. 1.3. Cơ hội và thách thức a) Cơ hội Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển KH&CN, các Nghị quyết Đại hội IX, X, XII của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển KH&CN cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức. Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế. b) Thách thức Trong bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về KH&CN và kinh tế của thế giới hiện đại, khả năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và năng lực KH&CN của quốc gia. Thách thức lớn nhất đối với sự phát triển KH&CN nước ta hiện nay là phải nâng cao nhanh chóng năng lực KH&CN để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn, trong điều kiện nước ta còn nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ phát triển kinh tế và KH&CN còn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài. Trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và KH&CN, nước ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, v.v... phù hợp với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và KH&CN ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi. 2. Ba vấn đề lớn về Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có nhiệm vụ quan trọng là góp phần cùng cả nước tạo ra lực lượng sản xuất mới, tiên tiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của phát triển kinh tế; bảo đảm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Ðể thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng cần xác định và chỉ ra được những vấn đề trọng tâm để tập trung các nguồn lực và giải pháp chính sách thích hợp, nhanh chóng thay đổi môi trường, thiết chế, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong hiệu quả của tổ chức, hoạt động và quản lý KH&CN, làm cho KH&CN thật sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. 2.1. Xác định đúng yêu cầu và nhiệm vụ phát triển KH&CN Trong Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020, chính là khâu xác định đúng những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở các ngành, các cấp, các địa phương. Cần tập trung nỗ lực và đưa ra cơ chế bảo đảm khả năng xác định trúng các nhiệm vụ, đồng thời sàng lọc, hạn chế thấp nhất những nhiệm vụ bị xác định sai, không đúng tầm. Bên cạnh một số kết quả nổi bật, hiệu quả hoạt động KH&CN chưa cao đang là một trong những tồn tại từ nhiều năm nay mà xã hội và bản thân cộng đồng KH&CN nhìn chung chưa hài lòng. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, nhưng trước hết và chủ yếu là do khâu xác định nhiệm vụ còn nhiều hạn chế và bất cập. Bản thân lãnh đạo các cấp cũng chưa quan tâm, chủ động đặt ra và đặt trúng các vấn đề thực tiễn trước mắt và trong tương lai cần thiết phải tiến hành nghiên cứu. Phần lớn các doanh nghiệp chưa quan tâm và thật sự cần đến các giải pháp KH&CN cho nên các vấn đề đặt ra cho KH&CN cũng còn chưa thường xuyên và rõ ràng. Phần đông các nhà KH&CN còn hạn chế về tư duy và nhãn quan liên ngành cho nên chủ yếu mới chỉ đề xuất các vấn đề thuộc chuyên ngành hẹp của mình và ở phạm vi tầm hiểu biết của mình, làm cho tính liên ngành của các nhiệm vụ đặt ra còn chưa rõ. Trong điều kiện như vậy, cần tạo ra cơ chế, quy trình bảo đảm xác định đúng tầm và đúng những vấn đề trọng tâm cho nghiên cứu để không lãng phí các nguồn lực, thời gian và công sức của đội ngũ các nhà KH&CN. 2.2. Tập trung cho các giải pháp về nhân lực và đầu tư tài chính cho KH&CN Ðây là hai điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi các nhiệm vụ KH&CN. Về nhân lực, cần tập trung cho một số loại nhân lực nhất định. Ðó là đội ngũ nhân lực có khả năng đặt ra các vấn đề và nhiệm vụ KH&CN, làm các tổng công trình sư có đủ năng lực thiết kế và chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH&CN lớn mang tầm vóc quốc gia, các nhóm nghiên cứu liên ngành trong thực hiện các nhiệm vụ KH&CN và đặc biệt cần nâng cấp ngay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH&CN. Ðào tạo là giải pháp về lâu dài, nhưng trước mắt có thể dùng các chính sách đặc biệt để thu hút và sử dụng kịp thời lực lượng KH&CN hiện có ở cả trong và ngoài nước. Các chính sách này sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả, ít tốn kém tiền bạc và thời gian hơn là đổi mới công tác đào tạo nhân lực mà thông thường chỉ phát huy tác dụng trong tương lai xa (ít nhất 10 đến 15 năm sau). Chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN mặc dù đã được đổi mới, nhưng cho đến nay vẫn còn là khâu yếu trong hệ thống bảo đảm nguồn lực và môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Kinh phí đầu tư cho các hoạt động KH&CN cần được quản lý thống nhất, phân bổ theo cơ cấu hợp lý giữa các nhiệm vụ bảo đảm hạ tầng (đầu tư phát triển), nghiên cứu và phát triển (theo các kênh chương trình, đề tài trọng điểm cấp nhà nước và hệ thống các quỹ), và các khoản chi thường xuyên. Trong đó, ngoài việc bảo đảm đủ kinh phí hỗ trợ đổi mới công nghệ cho khu vực doanh nghiệp cũng cần đầu tư tới ngưỡng cho các nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, tạo dự trữ cho các ứng dụng vào sản xuất và đời sống trong tương lai. Khắc phục những bất cập trong chế độ chi tiêu và thủ tục thanh quyết toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, tạo cơ chế minh bạch về thu nhập để các nhà khoa học có thể đủ sống và làm nghiên cứu một cách trung thực, hiệu quả. 2.3. Tập trung xây dựng và tạo cơ chế để phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH&CN Bên cạnh cơ chế chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các doanh nghiệp KH&CN sẽ là nơi gắn kết hoạt động nghiên cứu và phát triển với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc hình thành các doanh nghiệp KH&CN sẽ tạo ra một "kênh" liên kết mới cho các hoạt động KH&CN và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, các doanh nghiệp KH&CN thành lập mới sẽ vừa là loại hình tổ chức KH&CN mới (mang bản chất và hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp) lại vừa là loại hình doanh nghiệp mới (sản xuất, kinh doanh dựa trên tri thức và công nghệ mới). Thực chất, các doanh nghiệp KH&CN sẽ trở thành một lực lượng sản xuất mới đi tiên phong trong sản xuất các sản phẩm và dịch vụ mới, tạo ra các ngành sản xuất mới dựa trên tri thức và công nghệ mới, có khả năng cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng cao, lợi nhuận cao, từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, tạo ra nhiều việc làm và phát triển bền vững nền kinh tế. Ðược nuôi sống và phát triển trên nền tảng của ứng dụng tri thức KH&CN, các doanh nghiệp KH&CN sẽ là một trong những nơi đặt ra nhu cầu cụ thể, thiết thực cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đóng vai trò là trung tâm liên kết trong hệ thống đổi mới quốc gia, hỗ trợ cho các tổ chức KH&CN công lập nhanh chóng chuyển đổi và chuyển đổi thuận lợi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thông qua hiệu quả hoạt động và đóng góp của các doanh nghiệp KH&CN này sẽ chứng minh thuyết phục nhất cho vai trò nền tảng, động lực của tri thức KH&CN đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng. Cơ chế, chính sách đầu tư phát triển KH&CN trong giai đoạn 2011-2020 do vậy sẽ cần tập trung cho mục tiêu xây dựng và phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH&CN, coi đây là khâu đột phá quan trọng trong Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 3. Thực trạng và chiến lược phát triển Công nghệ sinh học ở Việt Nam 2011 - 2020 3.1. Thực trạng và yêu cầu phát triển Công nghệ sinh học ở Việt Nam - Việt Nam là một nước nhiệt đới có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú bảo đảm cung cấp các nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển công nghệ sinh học. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này hiện chưa được sử dụng tốt và đang có nguy cơ bị cạn kiệt do khai thác bừa bãi, không phù hợp với các qui luật sinh trưởng và phát triển tự nhiên của chúng. - Tuy năng lực nghiên cứu triển khai về công nghệ sinh học của chúng ta hiện nay đã có khả năng đáp ứng được một số yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, tiếp thu và vận dụng các thành tựu của thế giới vào điều kiện của Việt Nam, song nhìn chung còn rất hạn chế cả về trình độ của các công trình lẫn khả năng tạo ra các công nghệ mới phục vụ nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ công nghệ sinh học thuộc các chuyên ngành ở các trình độ khác nhau, song đội ngũ này chưa đồng bộ, thiếu cán bộ đầu đàn và chuyên môn giỏi. Trong thời gian qua đội ngũ này chưa phát huy được tác dụng do thiếu điều kiện làm việc, thiếu thông tin nghiêm trọng và kiến thức ít được