Tiểu luận Chính sách và biện pháp hợp lí trong xuất khẩu tại Trung Quốc

Hiện nay, trên thế giới xu hướng toàn cầu hoá và tự do hóa đang là hai xu hướng chủ đạo, đặt ra cho mỗi nước những yêu cầu, thách thức và cơ hội mới. Phải làm sao để không bị tụt hậu, bị bỏ lại trên sân chơi chung thế giới. Đi đôi với xu hướng toàn cầu hoá là quá trình phân công lao động quốc tế. Theo hai nhà kinh tế học hecker và Ohin thì các nước sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh của mình – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố dư thừa, và nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất nhưng phải chịu những chi phí cao hơn là nhập khẩu từ nước khác – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào là xuất khẩu và thế nào là nhập khẩu. Xuất khẩu là việc một quốc gia mua hàng hoá từ một nước khác về để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu là việc một quốc gia đem hàng hoá của nước mình sang một nước khác để phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của nước đó và đem doanh thu thu được về nước mình. Chúng ta biết rằng GDP(giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuật ra trong một nước trong một thời kì nhất định) được tính như sau: GDP= C+I+G+NX Trong đó NX chính là xuất khẩu ròng, bằng sản lượng xuất khẩu trừ đi sản lượng nhập khẩu.Chính vì thế xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế nói riêng và mọi mặt đời sống của một quốc gia nói chung. Do dó một chính sách xuất nhập khẩu hợp lí sẽ ảnh hưởng tốt đến phát triển.

doc16 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách và biện pháp hợp lí trong xuất khẩu tại Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, trên thế giới xu hướng toàn cầu hoá và tự do hóa đang là hai xu hướng chủ đạo, đặt ra cho mỗi nước những yêu cầu, thách thức và cơ hội mới. Phải làm sao để không bị tụt hậu, bị bỏ lại trên sân chơi chung thế giới. Đi đôi với xu hướng toàn cầu hoá là quá trình phân công lao động quốc tế. Theo hai nhà kinh tế học hecker và Ohin thì các nước sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh của mình – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố dư thừa, và nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất nhưng phải chịu những chi phí cao hơn là nhập khẩu từ nước khác – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào là xuất khẩu và thế nào là nhập khẩu. Xuất khẩu là việc một quốc gia mua hàng hoá từ một nước khác về để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu là việc một quốc gia đem hàng hoá của nước mình sang một nước khác để phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của nước đó và đem doanh thu thu được về nước mình. Chúng ta biết rằng GDP(giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuật ra trong một nước trong một thời kì nhất định) được tính như sau: GDP= C+I+G+NX Trong đó NX chính là xuất khẩu ròng, bằng sản lượng xuất khẩu trừ đi sản lượng nhập khẩu.Chính vì thế xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế nói riêng và mọi mặt đời sống của một quốc gia nói chung. Do dó một chính sách xuất nhập khẩu hợp lí sẽ ảnh hưởng tốt đến phát triển. Trong những năm gần đây Trung Quốc đã xây dựng được rất nhiều tiếng vang trên trường quốc tế. Tăng trưởng kinh tế luôn ở mức hàng đầu thế giới. Sở dĩ Trung Quốc có được những thành công đó là nhờ rất lớn vào các chính sách hợp lí trong xuất nhập khẩu nhất là xuất khẩu. Những chính sách và biện pháp đó thực sự là bài học quý giá cho bấy kỳ quốc gia nào nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt nam. Vậy những bài học đó là gì, chúng ta nên học hỏi điều gì và loại bỏ điều gì? Đây thực sự là vấn đề nên nghiên cứu. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU TRUNG QUỐC TRONG NHỮNG NĂM QUA 1.1 sơ qua về tình hình kinh tế của Trung Quốc Trung quốc là một nhà nước hai chế độ vớii đại lục Trung Quốc theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa và hai đặc khu là Hồng kông và Macao theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước Trung Quốc được chính thức thành lập ngày 01/10/1949. Trung quốc là một nước có rất nhiều lợi thế với diện tích rộng lớn 9596960 km vuông; tài nguyên thiên nhiên phong phú; lực lượng lao động dồi dào dân số tính đến năm 2006 là gần 1.3 tỷ người, lương đòi hỏi tương đối thấp lại có truyền thống lao động sáng tạo từ xa xưa để lại. Vì thế đây thực sự là những ưu đãi và nền tảng vững chắc để phát triển sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Và thực tế đã cho thấy Trung Quốc đã sử dụng và phát huy rất tốt những lợi thế đó. Suốt 26 năm qua tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc luôn là hơn 9.5 %. Trong đó tốc độ tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ phần trăm để so sánh giá trị GDP năm được tính và GDP năm liền trước, được tính theo công thức: (GDPnăm nay – GDPnăm trước)x100% GDP năm trước Sau đây là bảng thống kê về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc từ năm 2002 đến năm 2006. Năm  2002  2003  2004  2005  2006   Tốc độ tăng GDP  9,7%  10%  10.1%  10,4%  10,7 %   Bảng thống kê về kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu ròng từ năm 2002 đến 2006. Trong đó xuất khẩu ròng là hiệu giữa tổng giá trị xuất khẩu trừ đi tổng giá trị nhập khẩu. Năm  Xuất khẩu  Nhập khẩu  Xuât khẩu ròng   2002  325,57 tỷ $  295,22 tỷ $  30,35 Tỷ $   2003    32 Tỷ $   2004  762,3 Tỷ $  660,2 Tỷ $  102,1Tỷ $   2005  763 Tỷ $  660 Tỷ $  103 Tỷ $   2006  969 Tỷ $  792 tỷ $  177 Tỷ $   Theo bộ thương mại Trung Quốc thì năm 2006 kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là 1750 tỷ USD tăng 24%( tức khoảng 330 tỷ USD) so với năm 2005. Số liệu này khá sát với dự đoán 1758 tỷ USD của nước này trước đó. Điều này cho thấy Trung Quốc đã có những chuyên gia đánh giá và dự báo kinh tế có trình độ chuyên môn tốt như thế nào. Dự Trữ ngoại hối của họ năm vừa qua đã lên tới con số kỉ lục là một ngàn tỷ đôla. Với mức giữ trữ ngoại hối này thì có thể nói không một quốc gia hay nhà đầu tư nào có thể làm thay đổi và ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị trường tài chính của họ. Cũng từ các bảng thống kê trên chúng ta có thể phần nào hình dung ra sự ngày càng lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng của họ liên tục tăng và tăng với con số đáng mơ ước. Kim ngạch xuất khẩu cũng liên tục tăng với sự gia tăng của xuất khẩu có xu hướng ngày càng nhanh hơn nhập khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu chính là: điện tử học, máy móc, hàng dệt may, dụng cụ quang học, máy chụp ảnh, thiết bị y học, đồ gia dụng và sản phẩm nông nghiệp. Các đối tác chủ yếu nhập khẩu hàng của họ là Mĩ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, ASEAN, ... Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là đồ điện tử, máy móc, sản phẩm dầu mỏ, hoá chất...các đối tác chính là nhật bản, EU, Đài Loan, Hàn Quốc. Hàng hoá của họ thường có thế mạnh là hành hoá giá rẻ, mẫu mã đẹp, chất lượng cũng chấp nhận được. Như vậy là Trung Quốc đã mở rộng quận hệ buôn bán từ 180 nước vào năm 1980( thời kì đầu dổi mới) lên 228 nước trong giai đoạn hiện nay. Vơi mười đối tác lớn tổng hợp chung là Nhật Bản, Mĩ , EU, Hồng Kông, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan, Nga, úc, Canada. Ngoài những thành tựu đạt được trên mặt kinh tế thì Trung Quốc cũng đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên các mặt chính trị, văn hoá, đời sống và khoa hoc công nghệ. Từ chỗ gặp phải những rắc rối trong đường lối, trong quản lý và thể chế, Trung Quốc đã nhanh chóng bình ổn chính trị trong và ngoài nước. Vai trò và vị thế ngày càng được nâng cao trên trưồng quốc tế. Thể chế xã hội vẫn được duy trì và có xu hướng ngày càng vững mạnh. Bản sắc dân tộc lâu đời của nhân dân Trung Hoa được giìn giữ và ngày càng có ảnh hưởng trên thế giới. Văn hóa Trung Hoa được truyền bá rộng rãi cùng với đó là sự trở về của rất nhiều Hoa kiều trên khắp thế giới. Đặc biệt đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiên rõ rệt. Số người giàu tăng lên nhanh chóng, cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng đầy đủ. Trong đó một bộ phân lao động nhạy cảm là nông đân cũng đã được nâng cao đời sống rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người của nông dân năm 2006 là 460 $ tăng 17% so với năm 2005. Khoa học công nghệ của Trung Quốc cũng phát triển hết sức mạnh mẽ, với rất nhiều thành công trong vật lý, sinh học, y tế. Trong đó ngành nhân giống, lai tạo giống của họ là một ngành rất có thế mạnh. Các dịch vụ chăm sóc, nghiên cứu y tế cũng ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, năm 2005 Trung quốc phóng thành công tàu vũ trụ có người lái Tuần Châu năm vào vũ trụ, đánh dấu bước phát triển của Trung Quốc trong lĩnh vực hàng không nói riêng và công nghệ cao nói chung. 1.2 Trung quốc đã làm gì để có được những thành quả trên. Trước hết phải nói đến chiến lược phát triển kinh tế của Trung quốc. Năm 1978, căn cứ vào xu thế của thế giới và tình hình trong nước lúc bấy giờ, Trung quốc chính thức thực hiện đổi mới đất nước với khẩu hiệu “ xây dựngnhà nước Xã Hội chủ Nghĩa mang màu sắc Trung Quốc”, dỡ bỏ chế độ bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường và thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế. Trong đó, nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hoá mà giá cả và sản lượng được quyết định chủ yếu bởi hai yếu tố là cung và cầu. Dỡ bỏ chế độ quan liêu bao cấp, thực hiện kinh tế thị trường sẽ làm cho mỗi tác nhân trong nền kinh tế, nhất là con người trở nên năng động hơn. Họ bị kích thích bởi chính lợi ích, nhu cầu bản thân và con người xung quanh nên tự khắc sẽ phải lao động sáng tạo. Hơn nữa, họ không còn được nhà nước bao cấp hỗ trợ nữa, do đó nếu không lao động tốt hơn họ sẽ bị thị trường đào thải. Từ đó sẽ khai thác được tối đa năng lực lao động của con người và khả năng sáng tạo của họ. “Chiến lược mở cửa nền kinh tế” là việc các quốc gia tiến hành mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt chú trọng hoạt động ngoại thương, đẩy mạnh xuât khẩu và vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ để khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước. Cụ thể là: thực hiện tự do hoá thương mại, dở bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan và các hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Cụ thể là ban hành luật tự do kinh doanh, tự do sản xuất, trao đổi buôn bán trong những lĩnh vực hợp pháp. Cắt giảm thuế đối với hàng xuất nhập khẩu, thay cho việc đánh thuế rất cao như trước đây nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá giữa trong nước với nước ngoài. Dở bỏ các định chế trong pháp luật như quy định về hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu...hay xoá bỏ hay giảm bớt những yêu cầu về mẫu mã hàng hóa, bao bì, in ấn, xuất xứ của hàng hóa...Có thể thấy qua tham khảo bảng biểu vè mức thuế quan trung bình của Trung Quốc Trong Những thập niên gần đây: Năm  1992  1993  1994  1995  1996  1997  1998  1999  2001  2002    42,5  39.9  36,4  35,9  23  17  16,7  16,5  15,2  12   Khuyến khích xuất khẩu lấy mục tiêu thoả mãn thị trường thế giới. Trung Quốc sản xuất không phải chỉ để thoã mãn nhu cầu của người Trung Quốc mà còn chú trọng vào yêu cầu của người tiêu dùng nước ngoài. Họ đã cải tiến hàng hoá của mình sao cho phù hợp với yêu cầu thẩm mĩ, văn hoá, điều kiện tự nhiên của người tiêu dùng nước ngoài. Bởi lẽ, bán được nhiều hàng hoá cho nước ngoài đồng nghĩa với việc Trung Quốc đã lấy được lợi nhuận từ nước đó mang về nước mình. Khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Muốn phát triển kinh tế cần phải có những yếu tố như vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng, máy móc...Chỉ có cách thu hút đầu tư nước ngoài mới có thể đáp ứng được các yêu cầu trên. Một khi mời gọi được đầu tư nước ngoài nghĩa là đã lợi dụng được nguồn vốn của các nhà đầu tư, các nhà đầu tư sẽ đem theo khoa học công nghệ tiên tiến nhằm trang thiết bị cho sản xuất trong nước, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá, tạo ra nhũng cơ hội học hỏi. Kèm theo đó là một lượng lớn việc làm được tạo ra, giải quyết nạn thất nghiệp. Tăng thu ngoại tệ để thõa mãn các yêu cầu khác. Mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại. Biểu hiện như là hợp tác đa phương và song phương với các quốc gia khác. Tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nhu WTO( tổ chức thương mại thế giới), AFTA(tổ chức hợp tác kinh tế châu á thái bình dương)....hợp tác một mặt hay nhiều mặt ... Cũng như tất cả các nước khác khi thực hiện việc mở vửa nền kinh tế, Trung Quốc cũng phải đứng trước những thách thức và cơ hội mới. Cơ hội mà chiến lược mở cửa kinh tế tạo ra là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn. Đây là kết quả của hàng loạt các thay đổi trong kinh tế do việc mở của hội nhập mang lại. Có cơ hội để huy động nguồn lực bên ngoài để khai thác các nguồn tài nguyên và lao động trong nước. Thu ngoại tệ tăng lên để thõa mãn nhu cầu nhập khẩu... Tạo ra môi trường canh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất. Mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Song bên cạch những cơ hội đó Trung Quốc phải đứng trước những khó khăn sau: Khi mở cửa, nền kinh tế dễ bị tác động bởi các nhân tố bên ngoài như tăng giá nhiên liệu, chính sách tỷ giá hối đoái. Nhiều ngành sản xuất nội địa không tồn tại được. Gây nên tình trạng mất cân đối giữa các ngành, các vùng. Vậy Trung Quốc đã làm gì, thực hiện những chính sách gì để có được thành quả đáng học hỏi như ngày hôm nay? Sau đây là một vài bước đi hiệu quả tiêu biểu. *hội nhập sâu rộng và mạnh mẽ. Vào WTO năm 2001 sau khi mất 15 năm đàm phán. Vào APEC năm 1991. đầu tư vào các yếu tố sản xuât. trung quốc hiểu rằng để có thể sản xuất tốt và xuất khẩu có hiệu quả thì cần phả đầu tư phát triển nhiều yếu tố đầu vào như nguyên liệu, nhiên liệu, công nghệ, nhân công. Họ đã xây đựng rất nhiều nhà máy, thuỷ điện, nhiệt điện để đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng về điện năng. Không như Việt Nam hiện nay đang lâm vào tình trạng thiếu điện trầm trọng. Thậm chí họ đang tích cực thúc đẩy nghiên cứu về năng lượng hạt nhân, một lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với nhiều nước trên thế giới. Thêm vào đó, với dân số 1,3 tỷ người thìi nguồn nhân lực mà Trung Quốc đang nắm giữ chắc hẳn phải khiến các Quócc gia khác trên thế giới kính nể.Với nguồn nhân lực dồi dào,có điều kiện pháp triẻn lại đựoc sự quan tâm tạo điề kiện cho phát triển nguồn nhân lực thì đó trở thành một yếu tố rất mạnh trong quá trình phát triển kinh tế đất nứơc nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Nhà Nước Trung Quốc ỡa quan tâm đúng mức đến giáo ục, y tế văn hoá, chẳng những nhằm nâng cao đời sống văn hoá mà còn cả phát triển đời sống tinh thần cho nhân dân. Những năm gần đây Trung Quốc đã nổi lên như là một hiện tưọng của thế giới.Với việc mở rộng quy mô đào tạo, các loại hình đào tạo, giáo dục Trung Quốc đã có những bước nhảy vọt đáng kể. Có thể nói không quá lời rằng người Trung Quốc thật là giỏi. Họkhông những khiến cả thế giới phải khâm phục vì Lịch sử hào hùng đã qua mà cả trong hiện tại. Với sự tài hoà thông minh, nhanh nhạy ngưòi Trung Quốc luôn bắt kịp với phong cách tiêu dùng của thế giới,có thể thấy rõ qua viếc sản phẩm Trung quốc tràn ngập thị trường Việt Nam như trong thời gian qua để làm minh chứng rõ nét nhất với các sản phẩm dệt may,gia dung,thời trang,đồ điện tử,... Không chỉ thu hút nguồn chất xám trong nước mà còn mở rộng cánh của để thu hút các nguồn lực bên ngoài. Song song với đó Y học Trung quốc cũng phát triẻn.Với một lịch sử truyền thống văn hoá lâu đời, thì Y học,Văn hoá trung Quốc chính là điểm nà các nước khác trên thế giới như nước ta phải ngưỡng mộ và học hỏi nhiều điều, cùng với việc phát triển con người, việc đầu tư cho sản xuất và tái sản xuất mở rộng cũng là vấn đề được quan tâm chú ý. Việc Trung Quốc đã sử dụng được nguồn nguyên liệu tái sử dung(tái chế nguyên liệu)là vấn đề mà rất nhiều các nước trên thế giới quan tâm.Việc làm đó của Trung Quốc không những hạn chế được việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đất nước một cách bừa bãi mà con giảm đựơc chi phí đầu vào do giá thành nguyên liệu loại này tương đối rẻ, nhờ đó mà tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho Trung Quốc. Sản phẩm của Trung Quốc không chỉ có mẫu mã đẹp, phong phú mà còn có giá thành rất rẻ khá được ưa chuộng.Tuy một vài sản phẩm có chất lượng chưa cao song suy cho cùng các mặt hàng do người Trung quốc làm ra đã đánh trúng tâm lí tiêu dùng của một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng. Cuối cùng không thể không nhắc tới nguồn vốn đầu tư cho sản xuất. Không chỉ huy động từ nguồn vốn trong nước,Trung Quốc đã huy động được nguồn vốn rất lớn từ bên ngoài nhờ mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác, xúc tiến đấu tư, xúc tiến thương mại,…Cùng với đó là các chính sách ưu đãi, các biện pháp thuế quan và phi thuế quan nhằm mở cửa và mời gọi các nhà đầu tư quốc tế đổ vồn vào Trung Quốc như mở các Đặc khu Kinh tế. Mà tại đó các nhà lãnh đạo có quyền điều hành và quyết định tuỳ theo tình hình kinh tế và phát triển của đặc khu mình sao cho không làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Nhà nước chỉ hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô và gián tiếp quản lí thông qua hệ thống chính sấch của mình. Tại các Đặc khu này các nhà đầu tư được ưu tiên rất nhiều như được miễn thuế, giảm các thủ tục hành chính khác,…Bên cạnh đó, Trung quốc còn tích cực mở rộng cửa khẩu biên giới Đông Bắc, Tây nam, Với đường biên dài 2,2 vạn Km<giáp danh với 15 nước láng giềng với phương châm"Mở cửa buôn bán đi trước hợp tác toàn diện"…. * CÁC BIỆN PHÁP BÊN LỀ HIỆU QUẢ Bán phá giá đồng nội tệ. Bán phá giá hối đoái thể hiện qua việc xuất khẩu hàng hoá với giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận nhờ sử dụng lợi nhuận phụ thêm thu được từ sự mất giá của đồng tiền (sự đánh sụt giá đồng tiền của nước đó so với đồng tiên của nước khác) Khác với chống bán phá giá hàng hoá, trong phá giá hối đoái , giá bán không thấp hơn giá cả sản xuất. Giá bán ra thị trường nước ngoài có thể cao hơn giá của thị trường nội địa và bán phá hối đoái có thể xảy ra đối với mọi loại hàng hoá xuất khẩu một cách tự động. Cơ chế hoạt động của bán giá hối đoái là ở chỗ lúc đầu đồng tiền mất giá trong nước, sau dần dần phá giá đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, sức mua của đồng tiền trong nước cao hơn thị trường ngoài nước do đồng tiền mất giá đối ngoại cao hơn mất giá đối nội. Trong thời điểm các xí nghiệp sản xuất, thương mại trả giá nguyên liệu, chất đốt vật liệu, sức lao động,..với số lượng và đơn vị tiền tệ đã được ấn định trước khi bán phá giá. Đồng thời trong xuất khẩu thành phẩm, với số lượng ngoại tệ thu về được chuyển về trong nước theo tỷ giá mới và nhờ vậy nhà xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận ngoại ngạch nhiều hơn bình thường. Để đẩy mạnh xuất, nhà xuất khẩu có thể bán hàng của mình trên thị trường thế giới với mức giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh bằng cách thu hẹp phần lợi nhuận ngoại nghạch. Sự hoạt động bán phá giá nội tệ có thể tiếp tục cho đến khi mất giá trong nước cân bằng với mất giá đối ngoại của đồng tiền. Đồng thời tiền của nứoc mà hàng hoá xuất sang không bị phá giá hoặc phá giá thì ở mức thấp hơn. Như vậy điều kiện để có thể xảy ra bán phá giá hối đoái là: - Mất giá đối ngoại của đồng tiền cao hơn mất giá đối nội của đồng tiền - Các nước nhập khẩu hàng hoá của nước có đồng tiền mất giá không đồng thời phá giá đồng tiền của mình, hoặc phá giá ở mức thấp hơn. - Các nước không dùng các biện pháp chống bán phá giá hoặc ko áp dụng biện pháp phá giá hối đoái. Trong tình hình của nhà Nước Trung Quốc hiện nay, do có dự trữ ngoại hối tương đối lớn mà đặc biệt là lượng USD mà Trung Quốc dự trữ được đến nay đã lên trên số 12 chữ số, do đó có thể đảm bảo cho Trung Quốc giữ được sự ổn định về giá của đồng nội tệ với đồng USD, tạo ra lợi thế rất lớn cho Trung Quốc trong xuất khẩu, thu được nguồn ngoại tệ lớn về cho đất nước, nhờ thế mà xuất nhập khẩu ròng cao, đồng thời lại làm cho lượng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc lại càng tăng.Tuy nhiên trong hiện tại đây có thể coi là một biện pháp giúp đem lai thặng dư thương mại thần kì và tạo điều kiện cho phát triển kinh tế cao. Nhưng về lâu dài thì việc bán tống bán tháo hàng hóa ra ngoài với giá cả thấp hơn giá thị trường thế giới ko những làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, tài sảnquốc gia ma còn gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của quốc gia đó với nền kinh tế thế giới, và các quốc gia mạnh khác trên thế giới không thể đứng yên trước biện pháp đó của nước bán phá giá đồng nội tệ. Nếu không có biện pháp trả đũa thì chắc chán các nước này cũng sẽ có các chính sách thuế quan hoặc phi thuế quan nhằm hạn chế hàng nhập khẩu của nuớc đó. Bán phá giá hàng hoá Vậy bán phá giá hàng hoá là gì? Theo cách hiểu thông thường thì bán phá giá hàng hoá là “ việc bán sản phẩm của một nước sang nước khác với giá bán thấp hơn giá thông thường của hàng hóa đó tại nước nhập khẩu.” Theo WTO thì bán phá giá hàng hoá là hàng động mang sản phẩm của một nước sang nước khác với mức giá xuất khẩu lớn hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó hoặc sản phẩm tương tự sản phẩm đó khi bán cho người tiêu dùng của nước xuất khẩu. Sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt hoặc gần giống nhất với sản phẩm xuất khẩu được điều tra. Giá xuất khẩu: giá nhà sản xuất và xuất khẩu nước ngoài bán cho người nhập khẩu ở nước nhập khẩu. Giá này phải được tính là giá ghi trong hợp đồng kí kết giữa hai bên... Bán phá giá hàng hoá chỉ được áp dụng trong điều kiện thương mại thông thường ( nước nhập khẩu không áp dụng các hình thức chống bán phá giá...) sản phẩm tương tự bán tại nước xuất khẩu phải lớn hơn hoặc bằng 5% số lượng bán bị điều tra xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nghĩa là nếu Trung Quốc càng hạn chế được nhiều sản phẩm bán phá giá tiêu thụ trong nước, hoặc tăng giá thành trong nước thì họ lại càng có lợi khi bàn phá giá hàng hoá. Vì khi đó nguy cơ bị kiện bán phá giá sẽ giảm đi. Thực tế đã cho thấy, các nh
Luận văn liên quan