Tiểu luận Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII -đầu thế kỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại triết học cổ điển Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Marx - nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp). Feuerbach là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848). Feuerbach khẳng định vật chất là tính thứ nhất, tư duy là tính thứ hai, do đó ông là nhà triết học đứng trên quan điểm duy vật. Ông coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Feuerbach đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại nói riêng và có vai trò to lớn đối sự ra đời của triết học Marx. Chính vì lẽ đó, phạm vi củabài tiểu luận sẽ xoay quanh vấn đề “ Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai tròcủa nó đối với sự ra đời của triết học Mác.” Bài tiểu luận được chia làm 3 phần chính:  Phần 1: Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach  Phần 2: Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach  Phần 3: Vai trò chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của triết học Mác. Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học (1) (dùng cho học viên cao học và nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS Bùi Văn Mưa; Triết học phần I &II (2) (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên Internet Trong phạm vi trình độ kiến thức hạn hẹp, bài viết chưa thể đi sâu và chưa có cái nhìn khái quát về vai trò to lớn của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach với sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Do đó, rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để bài viết có thể hoàn thiện hơn và có giá trị ngoại cao hơn cũng như có ứng dụng nhiều hơn cho các bài viết phân tích khác. Em xin chân thành cảm ơn thầy

pdf14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ------------ TRIẾT HỌC Đề bài: Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác. HVTH: Đỗ Thanh Sơn STT: 83 Nhóm: 9 Lớp: Q TKD Đê m 3 Khóa: 22 GVPT: TS. Bùi Văn Mưa TP. HC M, tháng 12 năm 2012 LỜI MỞ ĐẦU Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại triết học cổ điển Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Marx - nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp). Feuerbach là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848). Feuerbach khẳng định vật chất là tính thứ nhất, tư duy là tính thứ hai, do đó ông là nhà triết học đứng trên quan điểm duy vật. Ông coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Feuerbach đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại nói riêng và có vai trò to lớn đối sự ra đời của triết học Marx. Chính vì lẽ đó, phạm vi củabài tiểu luận sẽ xoay quanh vấn đề “ Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai tròcủa nó đối với sự ra đời của triết học Mác.” Bài tiểu luận được chia làm 3 phần chính:  Phần 1: Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach  Phần 2: Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach  Phần 3: Vai trò chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của triết học Mác. Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học (1) (dùng cho học viên cao học và nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS Bùi Văn Mưa; Triết học phần I &II (2) (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên Internet… Trong phạm vi trình độ kiến thức hạn hẹp, bài viết chưa thể đi sâu và chưa có cái nhìn khái quát về vai trò to lớn của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach với sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Do đó, rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để bài viết có thể hoàn thiện hơn và có giá trị ngoại cao hơn cũng như có ứng dụng nhiều hơn cho các bài viết phân tích khác. Em xin chân thành cảm ơn thầy! 1 1. Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach 1.1 Giới thiệu về Feuerbach Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức - nhà duy vật và khai sáng. Triết học Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30 - đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức. L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi. Người cha là một luật sư, muốn con trở thành người hữu ích cho chế độ đương thời, vì thế đã khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc sống. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học trò nghiêm túc của Hegel. Năm 1928 Feuerbach gởi cho Hegel bản luận án của mình mang tên “ Về một tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng tâm nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm 1829 Feuerbach lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Feuerbach trình bầy logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng - chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cái cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai”(1843), Feuerbach đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người thu động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng đó. Thời kỳ cách mạng Feuerbach viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì học không thích thú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó có những biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị. 2 1.2. Sơ lược về lịch sử & triết học cổ điển Đức. Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học của Cantơ và Hêghen. Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới. Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù của Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ điển Đức. Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học. 3 2. Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản 2.1.Quan điểm về con người Feuerbach đã phát biểu: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con người, bạn sẽ thấy trong đó những bí mật của triết học". “Quan điểm của tôi chỉ có thể biểu đạt trong hai từ: Giới tự nhiên và con người". Với cách đặt vấn đề như vậy, ông đã đi sâu vào việc nghiên cứu bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm: mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, mối quan hệ giữa người và người, để rồi từ đó ông đi đến kết luận về mối quan hệ giữa người và thần. Mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên: Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời sống con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải để cho con mắt nhìn, mà con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không khí, bởi vì, nếu không có không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan hệ qua lại này chính là cơ sở, là bản chất của sự sống. Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu như con người có nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều thuộc tính hay nhiều sự vật của tự nhiên hơn... con người có vừa đủ những giác quan cần thiết để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại: Feuerbach đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý... bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Theo Feuerbach, chúng ta cần đến từ đâu đến, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì 4 tinh thần cũng đến từ đấy ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt động của đầu óc. Feuerbach nhận thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống và hoạt động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý học. Và cũng từ đó ông dễ dàng rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái gì khác như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao - bộ óc con người. Mối quan hệ giữa người và người: Feuerbach cũng hé mở một ý tưởng cho rằng, trong quá trình sống, con người có thể giao tiếp với những người khác, vôi cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà "từ một tồn tại thuần tuý vật lý, con người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình". theo Feuerbach, khi nói về con người, nhất thiết phải giả định rằng, có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con người mới là con người với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con người như là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử, Feuerbach đi đến quan điểm cho rằng, tính ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân mà nó còn mang tính xã hội. "Không chỉ có một tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích kỷ cá nhân - Feuerbach viết - mà còn có một tính ích kỷ xã hội, một tính ích kỷ của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng là nguyên nhân của mọi điều thiện, bởi vì không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có nghệ thuật, có khoa học... tính ích kỷ ngăn cấm sự trộm cướp, dối trá, làm hạn chế sự ngoại tình". Mối quan hệ giữa người và thần: Nhìn nhận con người vừa như là một cá thể chứa đầy tham vọng cá nhân, vừa như là sản phẩm của con người, sản phẩm của văn hoá và lịch sử chính là cơ sở lý luận để Feuerbach xem xét mối quan hệ giữa người và thần. Feuerbach cho rằng, việc nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của tôn giáo phải xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của con người và đời sống hiện thực của nó. Feuerbach viết: 5 “Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ, mà là thực thể tâm lý” Feuerbach đã bóc trần bản chất đích thực của tôn giáo và triết học tư biện hay thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng thành đối tượng hiện thực". Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh. Theo Feuerbach, tình cảm tôn giáo cũng như các ý niệm và biểu tượng của nó luôn thay đổi theo sự thay đổi của lịch sử xã hội loài người. Tử lập trường của chủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng, trong con người luôn có những ham muốn, nhu cầu, khát vọng và thái độ ích kỷ. Những nhu cầu sinh học và trạng thái tâm sinh lý này có thể được đáp ứng hoặc có thể không được đáp ứng, từ đó gây nên trong con người hai xu hướng trạng thái tâm lý: hoặc sợ hãi, bất lực, nỗi buồn chán, đau khổ (nếu con người gặp những điều bất hạnh) hoặc sự ngưỡng mộ, kính phục, lòng biết ơn (nếu con người gặp những thuận lợi). Feuerbach viết "Tôn giáo là sự phản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn giáo con người là đứa trẻ. Đứa trẻ không thể thực hiện ý muốn của mình bằng sức mạnh của nó, phải nhờ đến một tồn tại mà nó cảm thấy lệ thuộc... tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân chính, có ý nghĩa trong thời thơ ấu của nhân loại". 2.2. Quan điểm về giới tự nhiên. Feuerbach có quan niệm duy vật về giới tự nhiên, ông cho rằng vật chất không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại vĩnh viễn và vô hạn. Thế giới tự nhiên, thế giới vật chất có trước ý thức, ý thức có sau vật chất, chỉ là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ óc con người. Thế giới tự nhiên đương đại là kết quả tiến hóa theo quy luật vốn có của nó. Theo ông phải tìm nguyên nhân của thế giới tự nhiên ở chính trong thế giới tự nhiên, sự sống và con người cũng là kết quả tiến hóa hết sức lâu dài của chính giới tự nhiên. Ông cũng có quan điểm duy vật về không gian và thời gian. Theo ông không có vật chất ngoài không gian và thời gian, không gian và thời gian chỉ là những hình thức tồn tại của vật chất. 6 2.3. Quan điểm về tôn giáo Feuerbach là người phê phán tôn giáo kịch liệt, ông đã cố gắng chỉ ra nguồn gốc nhận thức luận của tôn giáo.Ông đã vận dụng khái niệm “tha hóa” để phân tích tôn giáo. Ông cho rằng không có tình cảm tôn giáo bẩm sinh, chính tôn giáo là sản phẩm sáng tạo của con người, tôn giáo là một phương thức thỏa mãn nhu cầu hư vô của con người. Chính con người đã sáng tạo ra thượng đế. Thượng đế chỉ là con người “tha hóa” với những phẩm chất tốt đẹp nhất. "Không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con người theo hình đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con người đã sáng tạo nên Thượng đế theo hình dáng của mình... mọi Thượng đế đều là tồn tại được sáng tạo nên bằng tư tưởng tượng. Con người u sầu, ốm yếu phản ánh tâm trạng của mình trong hình ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui vẻ thì ngược lại, họ miêu tả Thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng của con người quy định tính đa dạng của Thượng đế". Như vậy, có thể nói một cách ngắn gọn rằng, Feuerbach đã truy tìm bản chất của tôn giáo trong bản chất của con người, ông viết. "Bản chất thần thánh không là cái gì khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng khỏi những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được khách quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác đinh về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con người. Dựa trên những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Feuerbach thấy rằng trong thực tế thường diễn ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, sự thù địch giữa người theo đạo và kẻ dị giáo. Hơn nữa có những người có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội, song họ vẫn có nhũng hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm của các nhà thần học cho rằng dường như phủ định thương đế là một bước dẫn tới sự tiêu diệt quan hệ đạo đức. 2.4. Quan điểm về đạo đức. Xuất phát từ tinh thần nhân bản nên quan niệm về đạo đức của ông cũng đầy tính nhân bản, với ông khát vọng hạnh phúc là cơ sở của mọi hành vi của con người. Về bản chất con người cố gắng đạt cái mà mình cho là tốt, tránh cái mà mình cho là không tốt. Cũng vì đứng trên lập trường nhân bản nên ông gắn cảm giác với đạo đức, bởi lẽ, theo 7 ông điều tốt đem lại cho con người cảm giác vui, hạnh phúc, thỏa mãn; ngược lại, điều xấu đem lại cảm giác đau đớn, xót xa, dằn vặt... Ông khuyên răn con người không nên tham lam, ích kỷ. Quan niệm về đạo đức của ông về cơ bản có tinh thần nhân văn, vì con người. 2.5. Quan điểm về chính trị xã hội. Feuerbach cố gắng xây dựng quan điểm xã hội học nhân đạo trên cơ sở đạo đức học. Ở đây Feuerbach chịu ảnh hưởng của phong trào ánh sáng (Montesquieu, Voltaire...) và chủ nghĩa duy vật pháp thế kỷ XVIII. Từ khẩu hiệu tự do - bình đẳng - bắc ái Feuerbach đã nêu lên tuyên ngôn nổi tiếng: “hãy thống nhất mọi người trên tinh thần nhân bản!) Ông là người có tư tưởng dân chủ cấp tiến, căm ghét nhà nước quân chủ Phổ phong kiến, ông gọi nó là vô đạo đức, đòi thay nó bằng nhà nước cộng hòa tư sản. Theo ông con người nên có của riêng, nhưng có ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên ông đề cao chủ nghĩa vị kỷ thông minh, nghĩa là lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội không được mâu thuẫn với nhau. Ông cho rằng con người về bản tính là bình đẳng nên phải xóa bỏ bất công xã hội. Tuy nhiên, ông lại sai lầm khi cho bất bình đẳng, tệ nạn xã hội... chỉ là những hiện tượng ngẫu nhiên đi chệch hướng bản chất của con người và những hiện tượng này có thể khắc phục bằng giáo dục, bằng tình yêu của con người. Ông căm ghét thói đạo đức giả, phê phán nó và muốn xây dựng một xã hội “cộng đồng chung” mà ở đó có sự thống nhất về dân chủ và công bằng. 8 3. Vai trò chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đối với sự ra đời của triết học Mác. 3.1. Hạn chế của Feuerbach. Tuy Feuerbach có quan điểm duy vật về thế giới, nhưng còn thô sơ và siêu hình. Bởi lẽ, vật chất theo ông mới chỉ là những gì cảm giác được. Hay là khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm nói chung, chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói riêng, ông đã không thấy được “hạt nhân hợp lý” trong triết học của Hêghen và đã phủ định một cách tuyệt đối, như “hất chậu nước tắm và cả đứa trẻ trong đó”. Vê mặt nhận thức luận, mặc dù có những tư tưởng tiến bộ, nhưng quan điểm của ông cũng còn nhiều hạn chế: - Ông còn thiếu quan điểm biện chứng, quan điểm lịch sử, quan điểm thực tiễn về nhận thức. Về cơ bản theo ông, nhận thức là quá trình diễn ra chỉ một lần là xong. - Ông chưa hiểu mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. - Chủ thể nhận thức trong quan niệm của ông chỉ là những con người chung chung, đứng ngoài các quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể. - Đặc biệt là ông chưa hiểu được bản chất của thực tiễn, ông mới hiểu thực tiễn là những hoạt động buôn bán nhỏ. Feuerbach đã phần nào nhìn khía cạnh giao tiếp xã hội như là một yếu tố tạo bản chất con người. Tuy nhiên ông chưa thấy được con người xã hội, con người giai cấp, mới chỉ thấy được con người sinh học, con người có tính loài, con người tự nhiên chủ nghĩa. Về mặt tôn giáo của ông còn nhiều hạn chế: - Ông chưa hiểu được các nguồn gốc tâm lý, kinh tế - xã hội, giai cấp, văn hóa của tôn giáo. Mặc dù ông đã thấy được mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. - Ông cho rằng, xã hội loài người cần đến tôn giáo vì nó có thể đáp ứng những thiếu hụt mà con người không có được. - Hơn nữa, ông không muốn khắc phục những điều kiện làm nảy sinh tôn giáo, muốn thay Cơ đốc giáo bằng một tôn giáo mới – Tôn giáo tình yêu – khi ấy người với người là thượng đế của nhau. Quan niệm về đạo đức của ông về cơ bản có tinh thần nhân văn, vì con người. Tuy nhiên, cũng còn có