Tiểu luận Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam , Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam , nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Hơn 75 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một tư tưởng lớn được hình thành ngay sau khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nó giữ vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, tiếp tục dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta, là vấn đề then chốt đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công. Để Đảng làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam , Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới lại Đảng để Đảng xứng đáng là người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, để làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Tiểu luận của mình. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” nhằm để hiểu sâu sắc hơn và làm phong phú thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn và đổi mới Đảng; đồng thời, nhận thức sâu hơn về quan điểm, phương hướng hành động của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, củng cố niềm tin đối với Đảng, góp phần thắng lợi đường lối đổi mới toàn điện đất nước. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, sử dụng các phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu đề tài: - Phương pháp lịch sử - logic - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp tư duy biện chứng - Phương pháp đối chiếu so sánh

doc16 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8254 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận "Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới" A. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI             Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam , Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam , nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Hơn 75 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.             Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một tư tưởng lớn được hình thành ngay sau khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nó giữ vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, tiếp tục dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta, là vấn đề then chốt đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công. Để Đảng làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam , Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới lại Đảng để Đảng xứng đáng là người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, để làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”.             Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Tiểu luận của mình. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” nhằm để hiểu sâu sắc hơn và làm phong phú thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn và đổi mới Đảng; đồng thời, nhận thức sâu hơn về quan điểm, phương hướng hành động của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, củng cố niềm tin đối với Đảng, góp phần thắng lợi đường lối đổi mới toàn điện đất nước. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU             Nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, sử dụng các phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu đề tài:             - Phương pháp lịch sử - logic             - Phương pháp phân tích tổng hợp             - Phương pháp tư duy biện chứng             - Phương pháp đối chiếu so sánh B. NỘI DUNG  CHƯƠNG 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN  ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1.1. ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN, LÀ QUY LUẬT TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG       1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh đổi mới, chỉnh đốn Đảng             Để xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và dân tộc, một đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, một đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.             Theo Hồ Chí minh thì “đổi mới” và “chỉnh đốn” là hai vấn đề có mối quan hệ gắn bó, biện chứng với nhau. Người cho rằng phải trên cơ sở đổi mới mà chỉnh đốn. Tại Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ VI (01/1949) khi cuộc kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ mới, Người đã dùng thuật ngữ “chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Như vậy thuật ngữ “chỉnh đốn Đảng” đã được Đảng ta sử dụng trong cuộc vận động nhằm nâng cao trình độ lý luận đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo cho Đảng đủ sức lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc trong thời kỳ mới.             Khi cách mạng chuyển mạnh sang tổng phản công (1952), Hồ Chí Minh đã nói: “chỉnh đốn Đảng là việc chính mà chúng ta phải làm ngay”. Chỉnh đốn Đảng ở đây là nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thấm thuần đường lối cách mạng, loại trừ tư tưởng phi vô sản, những biểu hiện bi quan dao động, ỉ lại sự giúp đỡ từ bên ngoài.             Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần làm phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi Đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” [10,503].             Như vậy đổi mới và chỉnh đốn là hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau. Đổi mới Đảng là phải xóa bỏ cái lạc hậu, lỗi thời hay sai trái để tạo ra những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ. Còn chỉnh đốn Đảng là sắp xếp lại những cái đúng vốn có trước kia đến nay vẫn còn giá trị đúng đắn nhưng đã bị làm sai lệch. Xây dựng Đảng phải tiến hành trên cả hai mặt trận đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Hai mặt này quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉnh đốn là tiền đề cho đổi mới, đổi mới để đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới; chỉnh đốn để tồn tại, đổi mới để phát triển.       1.1.2. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng là vấn đề sống còn của Đảng             Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh luôn chú trọng gắn việc xây dựng đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt nam với việc chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người coi việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng không phải là giải pháp tình thế, nhất thời mà là nhiệm vụ chiến lược tất yếu và là công việc thường xuyên của Đảng. Bởi vì công cuộc đổi mới càng được đẩy mạnh, nhiều vấn đề mới lại được đặt ra, càng đòi hỏi Đảng phải vượt lên phía trước để không rơi vào tình trạng thoái trào; hơn nữa, để kịp thời ngăn chặn những thoái hóa, biến chất đã và đang xảy ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình, để làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và dân tộc, một Đảng “vừa đạo đức, vừa văn minh”. Để làm được điều đó, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình giống như việc “rửa mặt hàng ngày”.             Trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn lại mình. Tùy từng giai đoạn lịch sử mà Đảng cần phải đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp với tầm cao của nhiệm vụ cách mạng mới. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh là một quá trình lâu dài, không chỉ khi cách mạng gặp khó khăn, hay khi cách mạng trên đà thắng lợi mà cho đến khi Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền.             Nhìn một cách tổng quát, tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Thực tiễn đổi mới của đất nước ta đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển theo quy luật thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và quy luật này cũng quy định sự vận động và phát triển của Đảng ta mãi về sau. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng là đòi hỏi khách quan trong xây dựng Đảng, kể cả trong điều kiện Đảng đã trở thành đảng cầm quyền. 1.2. ĐẢNG PHẢI THƯỜNG XUYÊN TỰ CHỈNH ĐỐN ĐỂ NÂNG CAO SỨC CHIẾN ĐẤU VÀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG       1.2.1. Giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân             1.2.1.1. Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin             Theo Hồ Chí Minh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Chính vì vậy mà Người nói: Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”.  Người xem việc học tập, nâng cao trình độ lý luận Mác-Lênin là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của mỗi cán bộ, đảng viên.             Trong quá trình vận động thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước. Chủ nghĩa Mác-Lênin được Hồ Chí Minh khẳng định là một học thuyết cách mạng và khoa học, nó chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận, là kim chỉ nam đúng dắn cho giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ khác đứng lên làm cách mạng, cải tạo thế giới và giải phóng giai cấp mình ra khỏi áp bức, bóc lột, hướng tới sự phát triển toàn diện của con người.             1.2.1.2. Tăng cường giáo dục, rèn luyện đảng viên             Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, từng đảng viên là chiến sĩ cách mạng tiên phong của Đảng. Toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ những người đảng viên, đều phụ thuộc vào số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [11,204]. Do vậy, Người thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng viên về mọi mặt.             Theo Hồ Chí Minh, chăm lo giáo dục phẩm chất chính trị, nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ đảng viên, cán bộ đảng là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của các tổ chức đảng, đó là biện pháp chủ động, tích cực nhằm đảm bảo tư cách Đảng viên, bảo đảm cho mỗi Đảng viên là những chiến sĩ cộng sản có lý tưởng cách mạng, giữ vững vai trò tiên phong, gương mẫu trong nhận thức và hành động.             Vì vậy, theo Người, để làm cho tất cả đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng thì cần phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện đảng viên cả phẩm chất và năng lực, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Giáo dục, rèn luyện cả “đức” lẫn “tài”. Trong Di chúc, chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” [1,24].             1.2.1.3. Không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên             “Nhân tài kiến quốc” là một vấn đề có tầm chiến lược liên quan đến sự hưng thịnh hay suy vong của một đất nước. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến những bậc tài đức, những người hiền năng. Người yêu cầu: “Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải bào cáo ngay cho Chính phủ biết” [5,192]. Sau khi tìm được những người tài đức thì giao công việc thích hợp cho họ và trong quá trình làm việc phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn và nghiệp vụ để họ hoàn thành tốt các nhiệm vụ.             Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề dạy dỗ cán bộ, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học hỏi để biết việc làm. Người cho rằng: cách mạng là một nghề, nghề nào cũng phải học, cán bộ phải vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, vừa hồng vừa chuyên, phải hồng thắm chuyên sâu. Đối với cấp lãnh đạo và các cơ quan tổ chức thì cần phải lựa chọn và sử dụng cán bộ cho đúng. Người đòi hỏi thế hệ cha anh phải sống mẫu mực, nêu gương, phải giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành thế hệ cách mạng cho đời sau. Người cho rằng muốn giáo dục người ta làm cách mạng phải cách mạng bản thân mình trước đã.       1.2.2. Đổi mới công tác cán bộ             1.2.2.1. Mục tiêu của công tác cán bộ             Vấn đề công tác cán bộ là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng. Vì vậy mục tiêu của công tác cán bộ là để tránh tình trạng bè phái cục bộ, địa phương; sử dụng cán bộ phù hợp với khả năng, vị trí làm việc, sở trường của từng người và cũng để rèn luyện, thử thách cán bộ. Từ đó mới có hiệu quả cao trong việc sử dụng cán bộ.             1.2.2.2. Thực hiện những chủ trương và biện pháp đổi mới công tác cán bộ             Hồ Chí Minh coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thắng lợi và sự vững mạnh của cách mạng, trước hết là do đường lối chính trị đúng đắn; cán bộ có năng lực tổ chức thực hiện giỏi. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng cộng sản phải biết cách tổ chức để tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy tính năng động, sáng tạo và tinh thần làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài nhằm huy động được sức mạng toàn dân vào sự nghiệp kiến thiết đất nước. Vì thế đổi mới công tác cán bộ là hết sức cần thiết. Người nêu ra những yêu cầu đối với công tác cán bộ là:             Thứ nhất, hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Muốn hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công minh, khách quan.             Thứ hai, khi sử dụng cán bộ, tức là đặt đúng người đúng việc, tùy tài mà dùng người. Cần phải vì việc mà đặt người chứ không phải vì người mà định việc.             Thứ ba, giải quyết quan hệ giữa cán bộ trẻ và cán bộ già. Cán bộ trẻ và cán bộ già phải đoàn kết bổ sung, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ.             Thứ tư, phải chống bệnh địa phương cục bộ trong chính sách cán bộ, tránh đầu óc phe phái, họ hàng.             Thứ năm, phải “chiêu hiền đãi sĩ”, cầu người hiền tài, cân nhắc cán bộ.             Thứ sáu, xây dựng, chỉnh đốn hệ thống nhà trường đào tạo cán bộ. Hồ Chí Minh đã khẳng định: công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta. Vì vậy, phải xây dựng chỉnh đốn hệ thống nhà trường để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.       1.2.3. Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng             Cơ sở đảng là nơi truyền đạt, tổ chức triển khai đến từng người dân tất cả các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên từ trung ương xuống tận cơ sở, xuống các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể.             Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; ở đâu có quần chúng ở đó cần có sự lãnh đạo của Đảng, cho nên tổ chức Đảng phải được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Người nói: “Ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông thôn, đại đội có 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ” [7,242]. Tổ chức cơ sở đảng được thành lập ứng với cấp hành chính Nhà nước ở cơ sở và ở cơ quan, đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị cơ sở trong công an nhân dân và quân đội, tổ chức kinh tế. Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở Đảng là “nền tảng”, là “gốc rể” của Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng” [7,242] và “chi bộ là nền tảng của Đảng”…[7,467]. Một cây không thể thiếu gốc rễ, một ngôi nhà không thể thiếu nền móng. Điều đó đã nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của chi bộ với tư cách là tổ chức cơ sở đảng. “Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh” [7,243] và “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh” [8,270]. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà” [9.205]. Vì vậy, cần phải chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng làm cho tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, xứng đáng là nền tảng, gốc rễ của Đảng, là hạt nhân chính trị cơ sở.       1.2.4. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng             1.2.4.1. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng             Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng sẽ khơi dậy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các tổ chức Đảng và đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ trong các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội. Dân chủ sẽ khuyến khích mọi người mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi đóng góp xây dựng nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì lẽ đó mà Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói: Trong sinh hoạt đảng “phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả Đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của Đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt” [9,118].             Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển của cách mạng. Mọi Đảng viên được nêu ra ý kiến, quan điểm của mình, tự phê bình và phê bình làm cho tổ chức đảng trở nên trong sạch, vững mạng hơn. Như Hồ Chí Minh đã nói: tự do, dân chủ ở đây là “Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là quyền lợi mà cũng là nghĩa vụ của mọi người” [8,216].             Như vậy dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt Đảng. Tuy nhiên dân chủ phải đi tới tập trung, gắn liền với tập trung. Phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường tập trung và kỷ luật của Đảng.             1.2.4.2. Giữ vững đoàn kết thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo             Cách mạng càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, đòi hỏi phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo. Có như vậy giữ vững đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo và giữ vững đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo, Người nói: “Ngày nay, sự đoàn kết, trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo” [7,492]. Cán bộ lãnh đạo đoàn kết, thống nhất có ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Giữ vững đoàn kết thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo là một trong những vấn đề cần thiết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng. Người khẳng định: “Đảng ta tuy đông, nhưng khi tiến đánh thì như một người”. Điều này đã thể hiện rõ sự thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo của Đảng. Vì thế, cần giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữa gìn con ngươi của mắt mình.             1.2.4.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng             Một Đảng muốn vững mạnh, thực hiện được vai trò bộ tham mưu tối cao của toàn thể dân tộc, giải quyết những nhiệm vụ của cách mạng đặt ra thì trước hết Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên tiến, đại diện cho trí tuệ của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị tiên tiến, đại diện cho trí tuệ của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo, đề ra đường lối, chính sách xây dựng và đảm bảo thực hiện có kết quả đường lối. Cho nên, Đảng phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của mình cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn. Theo Người, lãnh đạo đúng nghĩa là: phải quyết định mọi vấn đề cho đúng, phải tổ chức thi hành cho đúng và phải tổ chức sự kiểm soát cho đúng. Muốn làm được đều đó thì cần phải giữ chặt mối liên hệ với dân chúng. Người nói: Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo, đó là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng và liên hợp người lãnh đạo với cơ quan. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng. Vì vậy, Người luôn quan tâm tới việc nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Để nhân dân tin tưởng thì Đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của mình và không ngừng phải đổi mới phương thức lãnh đạo.             1.2.4.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng             Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện đã đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, giành nhiều thắng lợi vẻ vang; đưa nhân dân lao động từ thân phận người nô lệ trở thành người chủ xã hội. Vì vậy, nhân dân Việt Nam đã gắn bó máu thịt với Đảng suốt cả chiều dài lịch sử. Chính vì thế mà Hồ Chí Minh xem công tác dân vận là một việc làm hết sức quan trọng. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, vận động nhân dân xây dựng Đảng. Người nói: “Đảng phải giáo dục cho đảng viên, cán bộ của mình rèn luyện đức tính khiêm tốn học hỏi nhân dân, phải biết lắng nghe ý kiến của dân, bởi quyền hành là lực lượng đều ở nơi dân” [6,698]. Nếu người cán bộ, đảng viên không biết lắng nghe ý kiến của nhân dân,
Luận văn liên quan