Tiểu luận Dự báo khai thác vào thân dầu trong đá móng khu vực mỏ đông nam rồng bồn trũng cửu long

Công nghiệp dầu khí ở Việt Nam là ngành còn trẻ, được thành lập từ 11-1975, ban đầu gọi là “ Tổng Cục Dầu Khí “, tuy nhiên trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân làm phồn thịnh cho đất nước. Liên doanh dầu khí Vietsovpetro hoạt động trong phạm vi lô 9-1 thuộc bồn trũng Cửu Long, hiện đang khai thác dầu ở mỏ Bạch Hổ và một số mỏ nhỏ trên diện tích Rồng. Diện tích Rồng bao gồm Trung tâm Rồng, Đông Bắc Rồng, Nam Rồng, Đông Nam Rồng và Đông Rồng. Đề tài “ Dự báo khai thác vào thân dầu trong đá móng khu vực mỏ Đông Nam Rồng bồn trũng Cửu Long “ được lựa chọn nhằm tham gia giải quyết một số nhiệm vụ cho cuối giai đoạn thăm dò đầu giai đoạn khai thác. Hiện nay, các mỏ đã phát hiện ở Việt Nam đều trong giai đoạn phát triển khai thác. Do đó vấn đề tính toán dự báo khai thác là một công tác có ý nghĩa rất lớn. Đề tài này trình bày phương pháp sử dụng mô hình số để tính toán và dự báo khai thác của vùng mỏ Đông Nam Rồng – một trong những mỏ đang khai thác và thuộc sự quản lý của xí nghiệp Vietsovpetro. Nội dung chính của tiểu luận gồm: Phần 1: Khái quát về vị trí địa lý, lịch sử tìm kiếm thăm dò, địa tầng, đặc điểm cấu - kiến tạo của mỏ Rồng. Ngoài ra trong phần này còn này còn mô tả sơ lược về thành phần thạch học – khoáng vật của đá móng mỏ Rồng. Phần 2: Dự báo khai thác vào thân dầu trong đá móng khu vực mỏ Đông Nam Rồng, bao gồm các chương sau: Chương 1: Giới thiệu các đặc trưng vật lý – thủy lực học của mỏ Đông Nam Rồng. Chương 2: Mô tả các đặc tính lý hóa của dầu, khí hòa tan và nước vỉa trong điều kiện tiêu chuẩn và điều kiện vỉa. Chương 3: Lịch sử khai thác của các giếng. Chương 4: Giới thiệu một số phương pháp tính toán phổ biến . Chương 5: Tính toán dự báo khai thác bằng mô hình số với hai phương án (bơm ép và năng lượng tự nhiên). Phần kết luận và kiến nghị.

doc72 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Dự báo khai thác vào thân dầu trong đá móng khu vực mỏ đông nam rồng bồn trũng cửu long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp dầu khí ở Việt Nam là ngành còn trẻ, được thành lập từ 11-1975, ban đầu gọi là “ Tổng Cục Dầu Khí “, tuy nhiên trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân làm phồn thịnh cho đất nước. Liên doanh dầu khí Vietsovpetro hoạt động trong phạm vi lô 9-1 thuộc bồn trũng Cửu Long, hiện đang khai thác dầu ở mỏ Bạch Hổ và một số mỏ nhỏ trên diện tích Rồng. Diện tích Rồng bao gồm Trung tâm Rồng, Đông Bắc Rồng, Nam Rồng, Đông Nam Rồng và Đông Rồng. Đề tài “ Dự báo khai thác vào thân dầu trong đá móng khu vực mỏ Đông Nam Rồng bồn trũng Cửu Long “ được lựa chọn nhằm tham gia giải quyết một số nhiệm vụ cho cuối giai đoạn thăm dò đầu giai đoạn khai thác. Hiện nay, các mỏ đã phát hiện ở Việt Nam đều trong giai đoạn phát triển khai thác. Do đó vấn đề tính toán dự báo khai thác là một công tác có ý nghĩa rất lớn. Đề tài này trình bày phương pháp sử dụng mô hình số để tính toán và dự báo khai thác của vùng mỏ Đông Nam Rồng – một trong những mỏ đang khai thác và thuộc sự quản lý của xí nghiệp Vietsovpetro. Nội dung chính của tiểu luận gồm: Phần 1: Khái quát về vị trí địa lý, lịch sử tìm kiếm thăm dò, địa tầng, đặc điểm cấu - kiến tạo của mỏ Rồng. Ngoài ra trong phần này còn này còn mô tả sơ lược về thành phần thạch học – khoáng vật của đá móng mỏ Rồng. Phần 2: Dự báo khai thác vào thân dầu trong đá móng khu vực mỏ Đông Nam Rồng, bao gồm các chương sau: Chương 1: Giới thiệu các đặc trưng vật lý – thủy lực học của mỏ Đông Nam Rồng. Chương 2: Mô tả các đặc tính lý hóa của dầu, khí hòa tan và nước vỉa trong điều kiện tiêu chuẩn và điều kiện vỉa. Chương 3: Lịch sử khai thác của các giếng. Chương 4: Giới thiệu một số phương pháp tính toán phổ biến . Chương 5: Tính toán dự báo khai thác bằng mô hình số với hai phương án (bơm ép và năng lượng tự nhiên). Phần kết luận và kiến nghị. PHẦN I TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC MỎ RỒNG A. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ MỎ RỒNG VÀ LỊCH SỬ TÌM KIẾM THĂM DÒ I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ Mỏ Rồng nằm trong lô số 9, thuộc bồn trũng Cửu Long, cách thành phố Vũng Tàu 120 km về phía Đông Nam. Cấu tạo Rồng nằm trên đới nâng trung tâm có hướng Đông Bắc và chiều dài khoảng 55 km và chiều rộng không quá 10 km. Chiều sâu mực nước biển ở khu vực mỏ Rồng vào khoảng 25-50 m. Nước biển có nhiệt độ trong khoảng từ 24.9 oC - 29.6 oC, nồng độ muối từ 33-35 g/l. Khí hậu ở vùng mỏ là nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình của không khí là 27 oC. Mỏ Rồng trên thực tế là một vùng mỏ bao gồm 4 mỏ: Rồng (khu vực giếng khoan R1, R2, RP-1, R3), Đông Rồng (khu vực RP-2), Đông Nam Rồng (khu vực RC-2) và một phần cấu tạo Nam Rồng chưa khoan, phân bố trên một diện tích rộng khoảng 400km2. II. LỊCH SỬ TÌM KIẾM THĂM DÒ Mỏ Rồng được phát hiện năm 1985 bằng giếng khoan tìm kiếm R1 đầu tiên khoan trên đỉnh vòm dựa theo “Phương án tìm kiếm thăm dò trên cấu tạo Rồng “ do giám đốc Vietsovpetro phê duyệt. Cho đến 1/5/1997 đã có 14 giếng tìm kiếm thăm dò, 12 giếng khai thác với tổng số mét đã khoan là 48.814 m và 33.059 m. Từ năm 1985 – 1989 đã tiến hành khoan các giếng R1, R2, R3, R4. Trong đó phát hiện dầu trong Mioxen dưới ở R1, R2; trong Oligoxen ở R2, R3; khí condensate ở R3; giếng R4 thì không thấy sản phẩm. Khu vực trung tâm có các giếng khoan R9, R101, R16. Khu vực Đông Bắc có các giếng khoan R3, R6, R7, R8. Dựa vào các dữ liệu khoan, địa chấn bổ sung để hiệu chỉnh các giếng tiếp theo nhằm nâng cao hiệu quả công tác. Năm 1992, gần khu vực giếng R9 đã xây dựng giàn Hình I.1. VỊ TRÍ MỎ RỒNG TRONG BỒN TRŨNG CỬU LONG khoan cố định RP-1, từ giàn khoan đã khoan giếng thăm dò R101 và giếng khai thác R11. Trong đó hai giếng R116 và R109 có nhiệm vụ thăm dò chi tiết. Chúng đã khoan vào móng và xác định được là móng có chứa dầu. Trên kết quả của R3 và R6 đã xác định giàn nhẹ RC-1 trên khu Đông Bắc nhằm thăm dò chi tiết, khai thác thử công nghiệp vỉa dầu trong Mioxen và Oligoxen. Năm 1993 được đánh dấu bằng việc mở thêm 2 mỏ mới là Đông Rồng (1993) và Đông Nam Rồng (1995) với giếng mở mỏ tương ứng là R11 và R14. Tại Đông Nam Rồng khi triển khai “ Đề án thăm dò chi tiết và khai thác thử công nghiệp khu giếng khoan R14 “ thì đã xây dựng giàn nhẹ RC-2 (năm 1995). Từ RC-1 khoan thêm giếng khoan thăm dò R21 và giếng khoan khai thác RC-2-01. Kết quả của 2 giếng này đã khẳng định giá trị công nghiệp của mỏ. Sản lượng Đông Bắc Rồng phát hiện các biểu hiện dầu khí trong móng . Đông Nam Rồng có giếng khoan (giếng R145) có lưu lượng rất lớn (700-1500 thùng/ngày). Đông Rồng, móng được bao phủ bởi trầm tích Oligoxen dưới hoặc Mioxen dưới với thành phần chủ yếu là sét, bột và cát với độ dày thay đổi trong khoảng 5-40 m. Hầu hết giếng khoan ở đây cho lưu lượng nhỏ trong khoảng 100-300 thùng/ngày. Các tích tụ dầu khí cũng chủ yếu nằm trong đá móng trước Kainozoi, mức sản lượng cao nhất dự kiến sẽ đạt là 12000-18000 thùng/ngày (Trần Mạnh Trí 1996). B. ĐỊA TẦNG Mỏ Rồng được phân bố trên đới nâng trung tâm của bồn trũng Cửu Long, có cấu trúc hết sức phức tạp, bị chia cắt thành nhiều khối riêng biệt bởi các hệ thống đứt gãy theo nhiều phương và biên độ khác nhau. Kết quả nghiên cứu có thể phân chia ra hai tầng cấu trúc rõ rệt: Tầng móng có tuổi trước Đệ Tam và trầm tích phủ có tuổi từ Oligoxen cho đến nay. Cả hai tầng đều có tính không đồng nhất rất cao theo mặt cắt và diện tích. Dựa vào các đặc điểm thạch học, cổ sinh, tài liệu carota của các giếng khoan, tài liệu về địa chấn và để thuận tiện trong công tác thăm dò và khai thác dầu khí các nhà địa chất dầu khí của Liên Doanh Dầu Khí Việt Xô đã phân chia và gọi tên các phân vị địa tầng theo tên địa phương cho cấu tạo này. I. Đá móng trước Kainozoi Đá móng được phát hiện ở 14 giếng khoan ở 3 mỏ. Các mẫu lõi được lấy từ các giếng khoan vào móng cho thấy đá móng ở mỏ Rồng chủ yếu là đá magma kết tinh và biến chất trao đổi do quá trình kết tinh và thủy nhiệt. Móng bao gồm nhiều loại đá khác nhau như đã trình bày trong cột địa tầng tổng hợp, trong đó chủ yếu là đá Granit, Granodiorit, Diorit có tuổi tuyệt đối từ 108-178 triệu năm. Đá móng thường gặp dưới dạng nứt nẻ đôi khi ở dạng hang hốc. Nứt nẻ thường được lắp đầy bởi canxit và zeolit (?). Dựa vào các mẫu lõi, mẫu vụn từ các giếng khoan ở mặt cắt Đông Nam Rồng, phần trên của đá móng gồm Granit và Diorit có độ hạt từ mịn đến trung bình và nứt nẻ, chứa thành phần khoáng vật chủ yếu là: thạch anh, plagioclas, biotit, muscovite, felspat kali, hocblend. Ngoài ra còn gặp dăm kết núi lửa mảnh thô dày tới 150 m. Nứt nẻ hang hốc bị lắp đầy bởi canxit, thạch anh, pirit, zeolit (?). Đây là bằng chứng để chứng minh cho sự hoạt động thủy nhiệt. Theo ý kiến của Kiriev.F.A các đá này là một phần của họng núi lửa, mặt cắt ngang của chúng đôi khi đạt đến 1.5 km. Hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề ghép tập đá dăm kết núi lửa vào móng hay lớp phủ trầm tích. Tại mỏ Đông Rồng, dòng dầu nhận được từ đá móng (R14) còn ở mỏ Rồng (R3, R6) khi thử vỉa chỉ nhận được dấu hiệu dầu, tại đây đá móng đặc trưng là Granit, Granit-biotit, Granit-gneis (R6), Granodiorit hocblend biotit (R7) có các nứt nẻ đơn bị lắp đầy bởi zeolit(?) và canxit. Tuổi tuyệt đối của đá móng tại khu vực mỏ Rồng dao động từ 50-178 triệu năm. II. Các thành tạo trầm tích Kainozoi Trầm tích Kainozoi phủ bất chỉnh hợp trên đá móng kết tinh. Đó là các trầm tích tướng ven biển, đầm hồ, châu thổ, ven châu thổ và tiền châu thổ lẫn vật liệu núi lửa. Trên cơ sở nghiên cứu các vi hóa thạch và bào tử phấn, kết hợp với việc nghiên cứu mẫu lõi, mẫu bùn, tài liệu địa chấn, biểu đồ carota, ta thấy các thành tạo trầm tích mỏ rồng chia thành: Paleogen, Neogen và Plioxen-các thành tạo Đệ Tứ. Chiều dày lớp phủ dày từ 2500 m ở vòm cấu tạo đến ở phần lún chìm. Chiều sâu thế nằm của các đơn vị địa tầng theo giếng khoan mỏ Rồng. II.1. Hệ Paleogen Ở mỏ Rồng khoan chưa gặp các trầm tích Paleogen cổ hơn Oligoxen, mặc dù có giả định rằng ngoài đá Oligoxen còn có cả Eoxen và có thể có đá cổ hơn ở các khu vực lún chìm sâu nhất thuộc khu vực nghiên cứu. Trầm tích Paleogen, trên cơ sở số liệu phân tích bào tử phấn hoa của Viện Dầu Khí Việt Nam được phân ra các điệp Trà Cú và Trà Tân tương ứng với tuổi Oligoxen dưới và Oligoxen trên. Các thành tạo Paleogen có thành phần cấu tạo rất phức tạp. Theo thành phần đó là các thành tạo trầm tích chủ yếu là lục nguyên. Ở mỏ Rồng mặt cắt có đá phun trào ở Oligoxen dưới (điệp Trà Cú) cũng như Oligoxen trên (điệp Trà Tân), ở các giếng khoan 1, 3, 5, 6, tổng chiều dày của đá phun trào nói chung là lớn hơn 100 m, còn ở giếng khoan 2 thì tổng chiều dày 200 m, đá phun trào chiếm 30% tổng chiều dày của Oligoxen. Theo số liệu địa chấn nóc trầm tích Oligoxen dưới (điệp Trà Cú) trùng với tầng phản xạ 11 mà tầng này không phải thấy được ở mọi nơi, còn nóc trầm tích Oligoxen trên (điệp Trà Tân) trùng với tầng SH-7. II.1.a. Trầm tích Paleogen ( P ). Trầm tích Oligoxen: gồm hai tập Oligoxen hạ - điệp Trà Cú (P31 tr.c ): được mở tại 7 giếng khoan tìm kiếm thăm dò (R3, R4, R6, R7, R8, R11, R18) và trên mặt cắt địa chấn chúng nằm ở mặt phản xạ móng SH-B. Điệp đặc trưng là sét kết ở phần trên lát cắt, còn ở phần dưới chủ yếu là sét kết, bột kết và cát kết xen kẽ. Đôi khi gặp các lớp sạn kết và đá núi lửa với thành phần trung tính. Ở một số giếng khoan chiều dày đá núi lửa đạt đến hàng chục mét. Tại phần đỉnh vòm cấu tạo Rồng (R1, R2, R9, R16, R109, R116) và Đông Nam Rồng (R14, R21, RC-201) đều vắng mặt các trầm tích điệp này. Theo tài liệu địa chấn chiều dày cực đại của điệp có thể đạt đến 500m tại các phần lún chìm sâu tại cấu tạo dương. Điều kiện lắng đọng trầm tích là lục địa, đầm hồ và sông. Trong đó cát kết của điệp tại mỏ Rồng ( R3, R6, R8 ) và Đông Rồng (R11, R18), nơi đã nhận được dòng dầu tự phun, phân ra 7 tầng sản phẩm VI-XII. Oligoxen thượng – điệp Trà Tân (P32 t t) : Trên phần lớn diện tích kẹp giữa hai tầng phản xạ SH11 và SH -7. Tại khu vực trung tâm, Nam cấu tạo rồng (R1, R2, R9, R16, R116, R119) và phần đỉnh cấu tạo Đông Nam Rồng (R14, R21) trung tâm của điệp nằm trực tiếp trên móng. Điệp đặc trưng bởi cát kết, bột kết và sét kết xen kẽ trong đó sét kết chiếm chủ yếu (40-70%). Đá có màu xám, xám tối và nâu, phần trên của lát cắt là sét màu đen và chứa nhiều vật liệu hữu cơ (1-10%). Trầm tích của điệp được thành tạo trong điều kiện lục địa tướng sông ngòi và đầm lầy đôi khi biển nông ven bờ. Đối với các loại đá này đều có tướng biển mạnh. Sản phẩm hydrocacbon chỉ gặp trong các vỉa cát – bột kết của mỏ Rồng (I-V). Tại giếng khoan R6 dòng dầu nhận được từ đá phun trào. II.1.b. Trầm tích Neogen ( N ) * Mioxen hạ - điệp Bạch Hổ ( N11 bh ) Được phân định bởi hai tầng phản xạ SH-3 và SH-7. Ở các giếng khoan R1, R9, R106, R116 phần trên của điệp Trà Tân bị bào mòn, ranh giới dưới của điệp Bạch Hổ trùng với mặt bào mòn. Gần điệp Trà Tân, điệp đặc trưng sét, sét kết, bột kết và cát kết màu xám, xám tối và sặc sỡ nằm xen kẽ. Phần trên của điệp Bạch Hổ chủ yếu là sét bột kết đánh dấu (sét Rotalia) thể hiện hầu hết trên vùng nghiên cứu. Trầm tích của điệp được thành tạo trong điều kiện vũng, châu thổ, biển nông ven bờ. Các thân cát ở đây có chiều dày biến đổi mạnh và diện tích phát triển không lớn. * Mioxen trung – điệp Côn Sơn ( N12 cs ): Được phân định giữa hai tầng phản xạ SH-2 và SH-1. Thành phần của điệp bao gồm cát thạch anh và sạn sỏi với bột sét. Trong mặt cắt có gặp các lớp kẹp đá cacbonat và các ổ than nâu. Môi trường lắng đọng trầm tích: biển nông, ven bờ, lục địa bị xâm lấn. Chiều dày của điệp 534-820 m. Không có vỉa dầu khí trong phần lát cắt này. II.1.c. Các trầm tích Plioxen – Đệ Tứ - điệp Biển Đông ( N2 Qbđ ) : Nằm ở phần trên của lát cắt và đặc trưng chủ yếu là cát hạt thô (đôi chỗ cát nhỏ), sạn với lớp kẹp mỏng bột, sét, macnơ. Trong lát cắt của điệp có gặp hóa thạch biển và glauconit. Chiều dày của điệp 470-622 m. Trầm tích của điệp lắng đọng trong điều kiện trầm tích biển nông. C. ĐẶC ĐIỂM CẤU KIẾN TẠO MỎ RỒNG I. KIẾN TẠO Mỏ Rồng nằm trong đới nâng trung tâm của bồn trũng Cửu Long. Cấu trúc địa chất vùng mỏ Rồng hết sức phức tạp. Các đứt gãy kiến tạo chính là thành phần của hệ thống đứt gãy kiến tạo trong bồn trũng Cửu Long được hình thành chủ yếu trong giai đoạn từ Oligoxen muộn tới Mioxen sớm, phân chia bồn trũng thành nhiều đơn vị cấu trúc khác nhau. Vùng mỏ Rồng nằm trên đới nâng trung tâm của bồn trũng. Theo bề mặt móng và các tầng trên nữa, có thể phân chia được hàng loạt cấu tạo giới hạn bởi các đứt gãy thuận và nghịch với biên độ và độ dài khác nhau. Số lượng đứt gãy, độ dày và biên độ giảm dần ở các tầng trên. Phần lớn các đứt gãy thuận tới tầng phản xạ SH-10 thì tắt, một số ít kéo dài lên tới tầng SH-7 và chỉ một vài đứt gãy riêng lẽ là kéo dài lên tới tận nóc trầm tích Mioxen dưới – tầng SH-3. Tầng móng là tầng thể hiện rõ nhất hình thái của các cấu tạo do vậy mà được dùng làm cơ sở để phân vùng kiến tạo vùng mỏ Rồng. Bảng I.a. Các thông số cơ bản của các cấu tạo dương trên diện tích mỏ Rồngtheo bản đồ mặt móng TT Cấu tạo Đường khép kín cuối cùng ( km ) Kích thước (km) Biên độ ( m ) Ghi chú 1 Rồng -3600 32 x 1-10 1150 Theo tài liệu 3D của GGG 2 Đông Rồng -4250 4.5 x 2.5 500 Theo tài liệu 3D của GGG 3 Đông Nam Rồng -2850 8.0 x 6-7 660 Theo tài liệu 3D của Western Geophysical 4 Nam Rồng -3900 7.5 x 2.5 500 Theo tài liệu 3D của Western Geophysical I.1. Đặc điểm hoạt động kiến tạo khu vực mỏ Rồng Qua những tài liệu về địa chấn, tài liệu khoan, phân tích mẫu… hoặc thể hiện bằng các bản đồ, mặt cắt, đồ thị… về địa chất khu vực mỏ Rồng ta thấy rằng khu vực mỏ Rồng có sự hoạt động kiến tạo hết sức phức tạp với các đặc điểm sau đây. + Bề dày trầm tích Oligoxen thay đổi nhanh. Chúng thường vát nhọn về các đới nâng thậm chí mất hẳn trên khối nâng (khối nâng trung tâm) chứng tỏ mức độ sụp lún của các khối hoàn toàn khác nhau. + Bề dày trầm tích ở hai cánh đứt gãy thường thay đổi đột ngột chứng tỏ đây là các đứt gãy đồng trầm tích. + Có khá nhiều ranh giới bào mòn địa phương, khu vực chứng tỏ có sự thay đổi hướng chuyển động của các khối trong quá trình trầm tích. Do khối sụt lún chậm hơn hoặc nâng tương đối do mực nước biển khu vực theo quan niệm địa chấn địa tầng hạ thấp xuồng, đường bờ tiến ra phía biển. + Có hoạt động magma phun trào trong Oligoxen, giai đoạn tách giãn chính, chứng tỏ các yếu tố cấu trúc và vật chất sau cũng như địa nhiệt đã tác động trực tiếp vào việc hình thành hệ thống dầu khí ở khu vực mỏ Rồng. + Có các đứt gãy hình hoa chứng tỏ có các chuyển động ngang tương đối giữa các khối. Những đặc điểm nêu trên không phải lúc nào cũng thể hiện ở các khối, đới. Ở khối này bào mòn thể hiện rất rõ, trong khi ở đới khác chỉ là gián đoạn trầm tích, hoặc núi lửa hoạt động rõ rệt ở khối này trong lúc khối bên cạnh trầm tích trong điều kiện tĩnh.Vì vậy đặc điểm địa chất của cấu trúc vừa mô tả ở trên là khác nhau và do đó tiềm năng dầu khí của mỗi đơn vị cấu trúc cũng khác nhau nên việc tìm kiếm thăm dò ở mỗi khối cần được xem xét kỹ và có chiến lược khác nhau. II. CẤU TẠO II.1. Cấu tạo trung tâm Rồng Cấu tạo Rồng là khối nâng bậc III với cấu trúc phức tạp, theo mặt móng khối này kết thúc bằng đường đẳng sâu -3600 m. Phần đỉnh cấu tạo khép kín bởi đẳng sâu -2750 m với kích thước 9 x 2 - 3.5 km, biên độ 300 m. Tại đây đã khoan 3 giếng khoan tìm kiếm thăm dò và 1 giếng khoan khai thác RP-1. Trục cấu tạo thay đổi từ Tây Bắc sang Đông Bắc. Theo nóc Oligoxen dưới (SH-11) tuy biên độ cấu tạo, độ dài của đứt gãy có giảm nhưng hình thái cấu trúc vẫn giữ nguyên. Tại đỉnh vòm và nghiêng xoay Đông - Nam không có trầm tích Oligoxen dưới. Theo nóc Oligoxen trên (SH-7) cấu tạo khép kín theo đường bình độ -2550 m, kích thước và biên độ giảm đáng kể tương ứng là 21 x 3 km và 150 m. Cấu tạo chỉ khép kín tại phần vòm và ở nghiêng xoay Đông Nam. Theo nóc SH-5, phần vòm cấu tạo gồm hai vòm nhỏ. Vòm thứ nhất nằm ở khu vực trung tâm Rồng khép kín đường đẳng sâu -2170 m, kích thước 2 x 1 km, biên độ 40 m. Vòm thứ hai ở khu vực giếng khoan số 1 khép kín đường bình độ -2100 m, kích thước là 2.5 x 1.5 km, biên độ 50 m. Trên nghiêng xoay Đông Nam có lún chìm kiểu đơn tà, nghiêng xoay Đông Bắc có dạng địa hào nông nhỏ, hai phía giới hạn bởi các đứt gãy. Việc phân định các cấu trúc cho thấy trung tâm Rồng có kiến tạo phức tạp. Sự kế thừa hình thái cấu trúc quan sát được trong tầng cấu trúc trung gian và sau đó là Oligoxen (SH-7). Vào đầu thời kỳ phát triển tầng nền (SH-5) quan sát thấy có sự thay đổi về cấu trúc, sự kế thừa chỉ còn có thể quan sát được tại phần trung tâm và tồn tại tới SH-3, sau đó cấu tạo hoàn toàn bị san bằng. II.2. Cấu tạo Đông Rồng Tầng kiến trúc trước Kainozoi tách rời khỏi phần trung tâm và phần Đông Bắc bởi nếp lõm sâu và bị giới hạn bởi các đứt gãy kiến tạo ở mọi phía. Theo tài liệu 3D, ở phía Tây có đứt gãy nghịch, biên độ lớn chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Tầng kiến trúc Kainozoi gồm 2 bậc: Paleogen và Neogen. Bậc Paleogen (Oligoxen) về bình diện kiến trúc theo nóc Oligoxen dưới (SH-11) đơn giản đi, trong khi đó vẫn bảo tồn tính kế thừa chung từ móng, độ dài và biên độ các đứt gãy giảm. Theo trầm tích Oligoxen trên, tầng SH-10, khối nâng có biên độ 150 m giới hạn bởi các đứt gãy phía Nam, Tây và Đông, còn ở tầng SH-7 vòm nâng đơn giản đi nhiều. Bậc Neogen (Mioxen): về nguyên tắc, tính kế thừa của bình diện cấu trúc được bảo tồn, tuy nhiên vòm nâng dịch chuyển đi gần 2 km về phía Nam so với móng. Ở phía Tây là đứt gãy chạy dài, ở phía Đông còn lại một phần các đứt gãy. Bình diện cấu trúc của tầng SH-3 hầu như lặp lại của tầng SH-5. II.3. Cấu tạo Đông Nam Rồng Theo mặt móng, đó là một cấu tạo phức tạp với đường khép kín -2850 m, kích thước 8 x 7 km, biên độ 660 m. Theo tài liệu 3D, các hệ thống đứt gãy chạy theo 3 phương khác nhau: Đông Bắc, á kinh tuyến và á vĩ tuyến, phân chia cấu tạo thành những khối nhỏ. Lớn nhất là một đứt gãy ở phía Tây nằm ở ngoài vùng khép kín có biên độ đạt đến 750 m. Trong phạm vi đường bình đồ khép kín biên độ đứt gãy chỉ còn 250 m. Phần nâng cao nhất của cấu tạo theo mặt móng nằm ở vùng giếng khoan R-21X, R-14X, khép kín theo đường bình độ -2925 m, có kích thước 3.5 x 1.7 km, biên độ 260 m. Vòm thứ hai nằm ở khối Tây Bắc tách rời khỏi khối Đông Nam bởi đứt gãy, có kích thước và biên độ nhỏ hơn tương ứng là 1.9 x 0.6 km và 75 m theo đường bình độ -2675 m. Đông Nam Rồng tách khỏi khối nâng Côn Sơn bởi võng nhỏ không sâu có độ rộng khoảng 300 m đến 750 m và độ sâu tương đối so với đường khép kín -2850 m dao động khoảng 25-150 m. Các hướng còn lại của Đông Nam Rồng đều được bao quanh bởi các võng sâu, tách nó ra khỏi cấu tạo khác như trung tâm Rồng, Đông Rồng. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và tích tụ dầu khí. Trong phạm vi khép kín của cấu tạo vắng mặt trầm tích Oligoxen dưới, do vậy SH-11 chỉ quan sát được ở các phần sụt xung quanh. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tồn tại các bẫy chắn thạch học và kiến tạo. Chiều dày trầm tích Oligoxen dưới tại các vùng này khoảng 200-300 m, tương đương với Đông Rồng, tạo tiền đề cho triển vọng dầu khí của chúng. Theo đường bình độ khép kín -2400 m của SH-10, cấu tạo Đông Nam Rồng có dạng mũi và hướng trãi á vĩ tuyến, các phía khác ngoại trừ hướng Đông Nam được bao quanh bởi các trũng. Về phía Đông Nam, tại Đông Nam Rồng tồn tại một cấu tạo dương theo đường khép kín -2000 m với kích thước 3.0 x 1.0 km, biên độ 100 m. Võng yên ngựa quan sát ở tầng phía dưới vẫn tồn tại nhưng nông và hẹp hơn. Ở đây các đứt gãy chủ yếu có hướng á vĩ tuyến, các đứt gãy có hướng Đông Bắc bị tắt đi. Theo SH-7, Đông Nam Rồng đặc trưng là một mũi cấu tạo phần nâng cao nhất có thể giới hạn bằng đẳng sâu -2100 m. Trong phạm vi này theo đường cong khép kín -1800 m có tồn tại một vòm nhỏ với kích thước 1.0 x 0.75 km và biên độ dưới 20 m. Theo SH-5 và SH-3 trên đỉnh Đông Nam Rồng vẫn tồn tại cấu trúc dạng mũi, nghiêng về phía Bắc - Tây Bắc, số lượng các đứt gãy giảm, còn biên độ của chúng không vượt quá vài chục mét. II.4. Cấu tạo Nam Rồng Đây là cấu tạo triển vọng của vùng nghiên cứu, theo tài liệu địa chấn 2D, Nam Rồng là cấu tạo dương với hướng trãi á vĩ tuyến và khá phức tạp, b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTIULUN~1.DOC
  • docLoi mo dau.doc
  • docPhu luc.doc