Tiểu luận Giáo dục đại học là hàng hoá công cộng hay hàng hoá cá nhân, nên cung cấp hàng hoá này theo hình thức nào, bởi khu vực nào

Mặc dù trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của giáo dục cũng được coi là một loại hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của nó đã làm cho vấn đề cung cấp và sử dụng hiệu quả đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với các loại hàng hóa thông thường. Điểm khác biệt của giáo dục ở chỗ, nó là một loại hàng hóa công cộng, mọi người đều có thể dùng chung một chương trình giáo dục, nhưng tri thức chung của nhân loại, và do vậy nhu cầu được hưởng thụ ngày càng tăng. Giáo dục cũng có tính chất của phương tiện sản xuất, có nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại tác tích cực và còn có thuộc tính xã hội, nhưng lại không bị tác động bởi năng suất lao động. Quan trọng hơn, giáo dục là công cụ hữu ích để thực hiện phân phối lại thu nhập, và đây là chức năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham gia lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất, vừa là nhà quản lý toàn bộ nền kinh tế và vừa làm nhiệm vụ trực tiếp cung cấp hàng hóa cho xã hội. Trong vai trò sản xuất, Nhà nước luôn chịu trách nhiệm thực hiện những dự án lớn, trong những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và khả năng đầu tư vốn ban đầu lớn nhưng thu hồi chậm. Sụp đổ của thị trường trong lĩnh vực giáo dục, có thể dẫn đến phá sản cả một hệ thống kinh tế xã hội, vì vậy rất cần một hệ thống đại học công lập mạnh tồn tại song song cùng với các trường tư thục. Trong vai trò quản lý, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước là tạo ra những cơ sở pháp lý cho các hoạt động giáo dục, đào tạo được xã hội hóa. Hoạt động “phi lợi nhuận” đóng một vai trò rất tích cực trong giáo dục đại học của các nước tiên tiến, nhưng hầu như còn xa lạ trong các chủ trương nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam. Chính sách tạo thêm các nguồn cung ứng dịch vụ giáo dục không dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước là chính sách về hoạt động phi lợi nhuận. Đây là một điểm khác biệt cơ bản, trường học là nơi cung cấp hàng hóa giáo dục cho xã hội nhưng lại không hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Kinh nghiệm của thế giới chỉ ra rằng, số lượng vượt trội các trường đại học công lập và đại học phi lợi nhuận của các nước tiên tiến cho thấy cổ phần hóa không phải là khuynh hướng tất yếu cho phát triển đại học. Do vậy, những chính sách đối với giáo dục ở các quốc gia trên thế giới được nghiên cứu rất thấu đáo, cẩn trọng và mang tính khoa học toàn diện. Một chính sách đúng đắn dành cho giáo dục thì lợi ích nhận được của cả xã hội sẽ tăng lên trong tương lai, ngược lại, bất kỳ sự sai lầm nào trong giáo dục thì kết quả không chỉ đem đến những hậu họa vô cùng nguy hại cho hệ thống giáo dục quốc dân, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, cũng như tinh thần độc lập tự chủ của cả một dân tộc. Hiểm nguy ấy không nhìn thấy được trước mắt, mà cái giá vô cùng đắt của nó, có thể nhiều thế hệ mai sau mới trả được. Dù nền kinh tế có tăng trưởng đến đâu thì cũng không thể dùng tiền để “mua” được một hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính nhân văn, dân tộc, khoa học và hiện đại mà toàn xã hội mong đợi./. Chúng em đã tìm hiểu Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng, chịu sự quản lý của nhà nước xét theo góc độ lý thuyết kinh tế và quá trình này được chúng em chia thành ba giai đoạn: + Phần I: Giới thiệu về hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân + Phần II: Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng xét về góc độ lý thuyết kinh tế. + Phần III: Vai trò của nhà nước trong giáo dục đại học

doc27 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 10824 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giáo dục đại học là hàng hoá công cộng hay hàng hoá cá nhân, nên cung cấp hàng hoá này theo hình thức nào, bởi khu vực nào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ********* BIÊN BẢN HỌP NHÓM Buổi 1 Học phần: Kinh tế công cộng Nhóm 1 – Lớp K7HK12 Thời gian: Vào lúc 9h, ngày 17 tháng 12 năm 2011 Địa điểm: Tại Văn phòng 211 tầng 2 - Học Viện Thanh Thiếu Niên Thành phần dự họp gồm có: 1.1 Thành phần có mặt 1. Hoàng Thị Tú Anh  6. Nguyễn Phương Anh   2. Lê Mai An  7. Nguyễn Ngọc Anh   3. Đàm Thị An  8. Trần Thị Kim Anh   4. Trần Tuấn Anh  9. Nguyễn Duy Anh   5. Lại Mai Anh  10. Phạm Ngọc Anh   1.2 Thành phần vắng mặt : Không có ai 2. Nội dung cuộc họp: - Chỉ định 1 thư ký : Trần Thị Kim Anh - Nhóm trưởng phát đề tài thảo luận cho các thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm đọc kỹ đề cương rồi cho ý kiến đóng góp để xây dựng nên đề cương thảo luận. - Nhóm trưởng phân công công việc cho từng thành viên trong nhóm. BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC STT  Họ và tên  Chức danh  Công việc giao   1  Hoàng Thị Tú Anh  TT  Tìm tài liệu lý thuyết về hàng hóa công cộng   2  Lê Mai An  TV  Tìm tài liệu về tình hình giáo dục đại học ở Việt Nam hện nay   3  Đàm Thị An  TV  Tìm tài liệu về tình hình giáo dục đại học ở Việt Nam hện nay   4  Trần Tuấn Anh  TV  Tìm tài liệu về vai trò của nhà nước trong giáo dục đại học   5  Lại Mai Anh  TV  Tìm tài liệu về những đặc điểm nổi bật của giáo dục đại học   6  Nguyễn Phương Anh  TV  Tìm tài liệu về những đặc điểm nổi bật của giáo dục đại học   7  Nguyễn Ngọc Anh  TV  Tìm tài liệu về những đặc điểm nổi bật của giáo dục đại học   8  Trần Thị Kim Anh  TK  Tìm tài liệu về vai trò của nhà nước trong giáo dục đại học   9  Nguyễn Duy Anh  TV  Tìm tài liệu về lý thuyết hàng hóa công cộng   10  Phạm Ngọc Anh  NT  Tìm giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học, làm biên bản, tập hợp bài, trình bày bài thảo luận.   3. Kết luận: Tất cả các thành viên tham dự cuộc họp đều nhất trí với sự phân công công việc của nhóm trưởng. 4. Kết thúc Cuộc họp kết thúc vào lúc 11h15’ cùng ngày. Thư ký (Ký, ghi rõ họ tên)  Nhóm trưởng (Ký, ghi rõ họ tên)   CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ********* BIÊN BẢN HỌP NHÓM Buổi 2 Học phần: Kinh tế công cộng Nhóm 1 : Lớp K7HK12 Thời gian: Vào lúc 14h, ngày 20 tháng 12 năm 2011 Địa điểm: Tại Văn phòng 211 tầng 2 - Học Viện Thanh Thiếu Niên 1.Thành phần dự họp gồm có: 1.1 Thành phần có mặt 1. Hoàng Thị Tú Anh  6. Nguyễn Phương Anh   2. Lê Mai An  7. Nguyễn Ngọc Anh   3. Đàm Thị An  8. Trần Thị Kim Anh   4. Trần Tuấn Anh  9. Nguyễn Duy Anh   5. Lại Mai Anh  10. Phạm Ngọc Anh   1.2 Thành phần vắng mặt : Không có ai Nội dung cuộc họp: - Tập hợp bài lại và chỉnh sửa bài để lập báo cáo hoàn chỉnh. - Các thành viên có mặt thống nhất trình bày bài báo cáo. - Nhóm trưởng đánh giá kết quả công việc về mức hoàn thành bài của từng thành viên và xếp loại. 3. Kết thúc Cuộc họp kết thúc vào lúc 11h50’ cùng ngày. Thư ký (Ký, ghi rõ họ tên)  Nhóm trưởng (Ký, ghi rõ họ tên)   BẢNG XẾP LOẠI NHÓM Nhóm 1 - Lớp K7HK12 STT  HỌ VÀ TÊN  CHỨC DANH  ĐÁNH GIÁ  XÊP LOẠI  CHỮ KÝ   1  Lê Mai An  T V  Bài làm tốt  A    2  Đàm Thị An  TV  Bài làm chưa hoàn chỉnh  B    3  Hoàng Thị Tú Anh  TV  Bài làm chưa hoàn chỉnh  B    4  Trần Tuấn Anh  TV  Bài làm tốt  A    5  Lại Mai Anh  TV  Bài làm chưa hoàn chỉnh  B    6  Nguyễn Phương Anh  TV  Bài làm chưa hoàn chỉnh  B    7  Nguyễn Ngọc Anh  TV  Bài làm chưa hoàn chỉnh  B    8  Trần Thị Kim Anh  Thư ký  Bài làm tốt  A    9  Nguyễn Duy Anh  TV  Bài làm chưa hoàn chỉnh  B    10  Phạm Ngọc Anh  Nhóm trưởng  Bài làm tốt  A    MỤC LỤC BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1 Buổi 1 1 BIÊN BẢN HỌP NHÓM 3 Buổi 2 3 LỜI MỞ ĐẦU 6 PHẦN I: GIỚI THIỆU VỀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG VÀ HÀNG HÓA CÁ NHÂN 8 1. Khái niệm 8 2. Phân loại hàng hóa công cộng 8 3. Cung cấp hàng hóa công cộng 9 PHẦN II: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEO GÓC ĐỘ LÝ THUYẾ KINH TẾ 13 1. Khái niệm giáo dục. 13 2. Khái quát giáo dục đại học trong nền kinh tế. 13 3. Thực trạng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. 14 4. Những đặc điểm nổi bật của giáo dục đại học. 17 PHẦN III: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 21 I. Vai trò của nhà nước trong giáo dục đại học. 21 II. Một số giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam. 24 KẾT LUẬN 25 LỜI MỞ ĐẦU Mặc dù trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của giáo dục cũng được coi là một loại hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của nó đã làm cho vấn đề cung cấp và sử dụng hiệu quả đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với các loại hàng hóa thông thường. Điểm khác biệt của giáo dục ở chỗ, nó là một loại hàng hóa công cộng, mọi người đều có thể dùng chung một chương trình giáo dục, nhưng tri thức chung của nhân loại, và do vậy nhu cầu được hưởng thụ ngày càng tăng. Giáo dục cũng có tính chất của phương tiện sản xuất, có nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại tác tích cực và còn có thuộc tính xã hội, nhưng lại không bị tác động bởi năng suất lao động. Quan trọng hơn, giáo dục là công cụ hữu ích để thực hiện phân phối lại thu nhập, và đây là chức năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham gia lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất, vừa là nhà quản lý toàn bộ nền kinh tế và vừa làm nhiệm vụ trực tiếp cung cấp hàng hóa cho xã hội. Trong vai trò sản xuất, Nhà nước luôn chịu trách nhiệm thực hiện những dự án lớn, trong những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và khả năng đầu tư vốn ban đầu lớn nhưng thu hồi chậm. Sụp đổ của thị trường trong lĩnh vực giáo dục, có thể dẫn đến phá sản cả một hệ thống kinh tế xã hội, vì vậy rất cần một hệ thống đại học công lập mạnh tồn tại song song cùng với các trường tư thục. Trong vai trò quản lý, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước là tạo ra những cơ sở pháp lý cho các hoạt động giáo dục, đào tạo được xã hội hóa. Hoạt động “phi lợi nhuận” đóng một vai trò rất tích cực trong giáo dục đại học của các nước tiên tiến, nhưng hầu như còn xa lạ trong các chủ trương nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam. Chính sách tạo thêm các nguồn cung ứng dịch vụ giáo dục không dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước là chính sách về hoạt động phi lợi nhuận. Đây là một điểm khác biệt cơ bản, trường học là nơi cung cấp hàng hóa giáo dục cho xã hội nhưng lại không hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Kinh nghiệm của thế giới chỉ ra rằng, số lượng vượt trội các trường đại học công lập và đại học phi lợi nhuận của các nước tiên tiến cho thấy cổ phần hóa không phải là khuynh hướng tất yếu cho phát triển đại học. Do vậy, những chính sách đối với giáo dục ở các quốc gia trên thế giới được nghiên cứu rất thấu đáo, cẩn trọng và mang tính khoa học toàn diện. Một chính sách đúng đắn dành cho giáo dục thì lợi ích nhận được của cả xã hội sẽ tăng lên trong tương lai, ngược lại, bất kỳ sự sai lầm nào trong giáo dục thì kết quả không chỉ đem đến những hậu họa vô cùng nguy hại cho hệ thống giáo dục quốc dân, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, cũng như tinh thần độc lập tự chủ của cả một dân tộc. Hiểm nguy ấy không nhìn thấy được trước mắt, mà cái giá vô cùng đắt của nó, có thể nhiều thế hệ mai sau mới trả được. Dù nền kinh tế có tăng trưởng đến đâu thì cũng không thể dùng tiền để “mua” được một hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính nhân văn, dân tộc, khoa học và hiện đại mà toàn xã hội mong đợi./. Chúng em đã tìm hiểu Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng, chịu sự quản lý của nhà nước xét theo góc độ lý thuyết kinh tế và quá trình này được chúng em chia thành ba giai đoạn: + Phần I: Giới thiệu về hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân + Phần II: Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng xét về góc độ lý thuyết kinh tế. + Phần III: Vai trò của nhà nước trong giáo dục đại học Trong quá trình làm bài, trình độ còn hạn chế nên bài thảo luận của nhóm 1 chúng em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn để bài thảo luận này được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! PHẦN I: GIỚI THIỆU VỀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG VÀ HÀNG HÓA CÁ NHÂN 1. Khái niệm Hàng hóa công cộng là những hàng hóa mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng lợi ích của nó. Tính chất của hàng hóa công cộng Hàng hóa công cộng có hai tính chất: . Không có tính loại trừ trong tiêu dùng: hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp thì không thể loại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. . Không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng: việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa công cộng đó sẽ không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. 2. Phân loại hàng hóa công cộng Hàng hóa công cộng có hai loại: . Hàng hóa công cộng thuần túy: là hàng hóa công cộng mang đầy đủ hai tính chất “không có tính cạnh tranh trong tiêu dung, không có tính loại trừ trong tiêu dung”. . Hàng hóa công cộng không thuần túy: là hàng hóa không mang đầy đủ hai tính chất trên. Hàng hóa công cộng không thuần túy được chia làm hai loại: + Hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn: là những hàng hóa khi có thêm nhiều người cùng sử dụng chúng thì có thể gây ra ùn tắc hay tắc nghẽn khiến lợi ích của những người tiêu dung trước đó bị giảm sút. + Hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá: là những thứ hàng hóa mà lợi ích do chúng tạo ra có thể định giá. Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể được hưởng lợi ích do tri thức đem lại. 3. Cung cấp hàng hóa công cộng Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả Điều kiện Samuelson: muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có một ngân sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và của hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng khác nhau và để tối đa hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hóa công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá nhân là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công cộng phản ánh chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất chuyển đổi biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul Samuelson đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách hiệu quả thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó chính là điều kiện Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể cả khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc vào quá trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công cộng sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có thị trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị trường do cung cầu quyết định, do vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà kinh tế học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình mô phỏng mô hình thị trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân về một loại hàng hóa công cộng thuần túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn định cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả là mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá nhân tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác với cân bằng thị trường hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau đối với mọi cá nhân. Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề “kẻ ăn không”. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các cá nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải bộc lộ một cách trung thực nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá nhân biết được số tiền mà cá nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công cộng thì người đó có thể bộc lộ nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng cũng như số tiền sẵn sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong trường hợp cực đoan, nếu một người biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không ảnh hưởng gì đến việc cung cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền - hiện tượng “kẻ ăn không”. Nếu có rất ít “kẻ ăn không” không trả tiền thì hàng hóa công cộng vẫn có thể được cung cấp một cách hiệu quả. Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá nhân biết rõ nhau nên việc che giấu nhu cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện thì dư luận, áp lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng hóa công cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình đóng góp để bê tông hóa con đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong cộng đồng lớn thì vấn đề trở nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể loại trừ những “kẻ ăn không”. Đặc biệt nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì họ không có công cụ, chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn cung cấp hàng hóa công cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng hóa công cộng và thu các khoản đóng góp thông qua thuế. Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày càng bị hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ sự phát triển của công nghệ truyền hình, ngày nay đài truyền hình có thể cung cấp dịch vụ qua đường cáp thuê bao, qua đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt những người không chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này giải thích tại sao, gần đây, tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hàng hóa công cộng. Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng  Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không được mong muốn Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra. Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất thiết kế là Qc, trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc qua cầu miễn phí thì sẽ có Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Qe lượt và xã hội bị tổn thất một lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá. Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi. Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn  Hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch lớn Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ thống các trạm thu phí trên đường cao tốc,...thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế. Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội trong hai trường hợp. Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này. Giả sử hàng hóa công cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do phát sinh thêm chi phí giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới p. Mức cung cấp hàng hóa cộng cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên nghĩa là Qo. Tuy nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ còn Qe người sử dụng hàng hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có Qm người sử dụng chứ không phải Qo. Trong trường hợp này lợi ích biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã hội cũng bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác EFQm do tiêu dùng quá mức. Trong trường hợp này chính phủ muốn quyết định xem nên cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí cần phải so sánh tổn thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá mức nhỏ hơn tổn thất trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn phí và ngược lại. Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay thu phí hoàn toàn không liên quan đến khu vực công cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy rằng một hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ hoàn toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó. Có một xu hướng mới trong lĩnh vực công nghệ: kiếm tiền từ hàng hóa công. Cho đến tận bây giờ, hàng hóa công vẫn được xem như là một lĩnh vực từ thiện. Nhưng hiện nay, các doanh nhân, các nhà đầu tư, và lãnh đạo các tập đoàn đã nhìn thấy được cơ hội tiềm năng ở lĩnh vực này. PHẦN II: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEO GÓC ĐỘ LÝ THUYẾ KINH TẾ Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm của giáo dục cũng được coi là một loại hàng hóa. Nhưng, liệu sản phẩm của giáo dục có giống như bất cứ một hàng hóa nào đó, và việc cung cấp nó có thể hoàn toàn dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường? Những quan điểm trái chiều trên công luận ở Việt Nam hiện nay thể hiện sự quan tâm rất lớn của người dân đến sự nghiệp giáo dục của đất nước. Mặc dù, được cho là một loại hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của các sản phẩm giáo dục đã làm cho vấn đề cung cấp và sử