Tiểu luận Giáo dục so sánh Việt Nam – Malaysia

Trung học phổ thông:Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. -Giáo dục nghề nghiệp:nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo vói nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình chuy ển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động - Trung học chuyên nghiệp: thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm2010. - Dạy nghề: thu hút h ọc sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010. - Dạy nghề bậc cao:thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010. Trình độ công nhân kỹ thuật đạt 22% năm 2005 và 28% năm 2010. Quy mô đào tạo nghề ở tất cả các trình độ đào tạo đạt khoảng 1.5 triệu người vào năm 2010. - Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học:Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000-2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000 năm2010, nghiên cứu sinh từ 3.870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010.

pdf25 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4278 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giáo dục so sánh Việt Nam – Malaysia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 1 Tiểu luận GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 2 MỞ ĐẦU Giáo dục so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu, tập hợp của nhiều môn học khác nhau. Nó thẩm định, đánh giá nền giáo dục của các nước đã phát triển cũng như đang phát triển. Nó đánh giá vai trò của nền giáo dục ấy với sự phát triển của cả cá nhân và đất nước. Nó cũng nghiên cứu các hệ thống giáo dục và thẩm định các giá trị xã hội ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục đó như thế nào. Nó đề cập đến vai trò, mục tiêu của một nền giáo dục và hiệu quả của nó đối với xã hội. Đặc biệt khi nghiên cứu, chú ý nhiều tới các chính sách và hoạch định cộng đồng của một nền giáo dục. Với đặc điểm chung là: “Từ nền giáo dục thuộc địa tới độc lập, phát triển“, Việt Nam và Malaysia có điểm xuất phát giống nhau. Nhưng hiện nay, Malaysia là một trong những nước có trình độ phát triển KH- CN cao trong khu vực ASIAN với chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu có hàm lượng chất xám cao. Ở Việt Nam, chưa lúc nào chất lượng giáo dục lại được đặt ra như một nhu cầu bức thiết như hiện nay. Đổi mới là con đường duy nhất để giáo dục phát triển và phát triển bền vững. Chúng ta hãy xem xét thực trạng hệ thống giáo dục Việt Nam so với Malaysia là nước trong khu vực, có cùng điểm xuất phát để từ đó đề xuất hướng phát triển hệ thống giáo dục Việt Nam cho phù hợp với các quốc gia trong khu vực và thế giới. GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 3 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC VIỆT NAM 1.1 Tình hình giáo dục : Cả nước có khoảng 17,123 triệu học sinh, sinh viên , trong đó có 7,75 triệu học sinh tiểu học và 6,62 triệu học sinh trung học cơ sở và khoảng 2,76 triệu học sinh trung học phổ thông. Hàng năm khoảng 1,6 triệu học sinh vào học tiểu học, khoảng 1,4 triệu học tốt nghiệp phổ thông cơ sở, khoảng 850.000 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (50% học sinh cùng độ tuổi) và khoảng 197.000 vào học đại học cao đẳng (12% thanh niên cùng độ tuổi). GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 4 số học sinh, sinh viên hàng năm trong các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân 0 5000 10000 15000 20000 25000 1995 - 1996 1996 - 1997 1997 - 1998 1998 - 1999 1999 - 2000 2000 - 2001 2001 - 2002 2002 - 2003 2003 - 2004 2004 - 2005 N gì n họ c si nh Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung học chuyên nghiệp Đại học cao đẳng Tỉ lệ biết chữ ở Việt Nam tương đối cao (92% dân số). Trong số 8% dân số mù chữ thì 80% sống ở vùng nông thôn, trong đó 60% là phụ nữ. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng nhanh trong thời gian qua, chiếm khoảng 10% - 15% ngân sách nhà nước. Ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo của khu vực tư nhân ước tính là trên 40% tổng chi phí trực tiếp. Trong số đó nhiều nhất là chi cho cấp mẫu giáo và trung học cơ sở (khoảng 60%) rồi đến tiểu học (dưới 50%), trung học chuyên ban (19%) và trung học chuyên nghiệp và trung học nghề (12%). Bên cạnh các thành tích đó, hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam còn đang đứng trước nhiều khó khăn. Trường lớp còn thô sơ, trang thiết bị nghèo nàn lạc hậu, giáo trình thiếu cập nhật, trình độ giáo viên chưa cao và chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt hiện vẫn còn hàng triệu trẻ em không đến trường. Trong thời điểm đất nước đang tiến hành đổi mới, cải cách giáo dục thì những con số thống kê về giáo dục giai đoạn 2003-2005 sẽ phần nào nhìn nhận một cách khách quan hơn về thực trạng trên. Cả nước hướng tới xây dựng một xã hội học tập từ cơ sở. Ở một đất nước đang phát triển, thu nhập GDP và bình quân USD/ người chưa cao, hơn 80 triệu dân, nhưng có tới GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 5 22 triệu người đi học - bình quân, cứ bốn người dân có hơn một người đi học. Vừa qua được UNESCO xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo dục. Như một quy luật tất yếu của mọi quốc gia đang phát triển, giáo dục nước ta đang dịch chuyển từ giai đoạn tinh hoa sang giai đoạn phổ cập (giáo dục phổ thông) và đại chúng (giáo dục đại học), dịch chuyển từ nền giáo dục 5% dân cư đi học, sang nền giáo dục 100% dân cư đi học. Không thể phủ nhận những thành quả ấy nhưng rõ ràng, nền giáo dục Việt Nam đang đứng trước một thử thách lớn về mặt chất lượng ở tất cả các cấp học. 1.2 Mục tiêu và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo: Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục: Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Chính phủ đặt vào các mục tiêu sau: - Hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1. - Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Phổ cập trung học cơ sở ở thành phố, vùng kinh tế trọng điểm và nơi có điều kiện. - Tính chung cả nước có 60% trẻ em độ tuổi 11-15 học trung học cơ sở. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học. - Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15-35, tất cả các tỉnh đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. - Tăng qui mô học nghề bằng mọi hình thức lên khoảng 1 triệu người/năm, đạt 22%-25% đội ngũ lao động được qua đào tạo. - Nâng qui mô giáo dục đại học, cao đẳng với cơ cấu đào tạo hợp lý, theo sát cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. - Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa, cụ thể như: - Giáo dục mầm non: đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào năm 2010; riêng trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010. - Giáo dục phổ thông: thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí , thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010. - Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố , đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, trong cả GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 6 nước 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010. - Trung học phổ thông: Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. - Giáo dục nghề nghiệp: nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo vói nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động… - Trung học chuyên nghiệp: thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm 2010. - Dạy nghề : thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010. - Dạy nghề bậc cao: thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010. Trình độ công nhân kỹ thuật đạt 22% năm 2005 và 28% năm 2010. Quy mô đào tạo nghề ở tất cả các trình độ đào tạo đạt khoảng 1.5 triệu người vào năm 2010. - Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000-2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000 năm 2010, nghiên cứu sinh từ 3.870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010. - Giáo dục không chính quy: củng cố và nâng cao kết quả xoá mù chữ cho người lớn, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xoá mù chữ, bổ túc trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. - Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hoà nhập, bán hoà nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010. Chính sách phát triển giáo dục: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học được Quốc hội thông qua ngày 12/8/1991. Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua tháng 6/2005, có nội dung chủ yếu là:  Cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân, phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục và hệ thống văn bằng. Củng cố trường công, khuyến khích mở trường bán công, dân lập; cho phép mở trường tư ở các cấp mầm non, chuyên nghiệp và đại học. Đa dạng hoá các loại hình giáo dục như: tập trung và không tập trung, chính qui và không chính qui, học từ xa...  Xác định lại mục tiêu giáo dục đào tạo, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng cấp học, ngành học đáp ứng yêu cầu phát triển, đặc biệt yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.  Tăng cường hệ thống luật pháp trong giáo dục. Tăng dần tỉ trọng ngân sách giáo dục. Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ quốc tế, vay vốn nước ngoài để phát triển giáo dục. GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 7  Cải thiện đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.  Đổi mới quản lí giáo dục.  Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục  Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo: Chính phủ Việt Nam tập trung ưu tiên hợp tác trong các lĩnh vực: - Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt về đào tạo kỹ năng trình độ cao, nhân lực thành thạo chuyên môn thuộc những lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến và quản lý kinh doanh. - Phát triển những ngành học và môn học cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cần thiết cho sự hợp tác quốc tế. - Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và trao đổi sinh viên, thông tin, tài liệu và kinh nghiệm về giáo dục và khoa học. 1.3 Sơ đồ hệ thống và chứng chỉ giáo dục quốc dân Sơ đồ hệ thống văn bằng, chứng chỉ Bậc, cấp giáo dục Thời gian khung của quá trình GDĐT Tuổi chuẩn vào lớp đầu Điều kiện học lực để được vào học lớp đầu Văn bằng tốt nghiệp 1 2 3 4 5 I. GD mầm non - Nhà trẻ - Mẫu giáo 3 năm 3 năm 3-4 tháng 3 tuổi II. GD phổ thông - Tiểu học - TH cơ sở -Trung học chuyên ban 5 năm 4 năm 3 năm 6 tuổi 11 tuổi 15 tuổi có bằng tiểu học có bằng trung học cơ sở Bằng tiểu học Bằng trung học cơ sở Bằng tú tài III. GD chuyên nghiệp - Đào tạo nghề sau tiểu học - Đào tạo nghề sau trung học cơ sở - Trung học dưới 1 năm 1-2 năm 3-4 năm 3-4 năm 13-14 tuổi 15 tuổi 15 tuổi 15 tuổi Có bằng trung học cơ sở Có bằng trung học cơ sở Có bằng trung học cơ sở Chứng chỉ nghề Bằng nghề GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 8 chuyên nghiệp - Trung học nghề Bằng trung học chuyên nghiệp Bằng trung học nghề IV. Bậc giáo dục đại học - Cao đẳng 3 năm 18 tuổi Có bằng tú tài hoặc trung học chuyên nghiệp hoặc trung học nghề Bằng cao đẳng - Đại học 4-6 năm 18 tuổi Có bằng tú tài hoặc trung học chuyên nghiệp hoặc trung học nghề Hoàn thành giai đoạn1: chứng chỉ đại học đại cương Hoàn thành giai đoạn 2:Bằng cử nhân - Cao học 2 năm Có bằng cử nhân Bằng cao học hoặc thạc sĩ - Đào tạo tiến sĩ 4 năm 2 năm Có bằng cử nhân Có bằng cao học Bằng tiến sĩ CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC MALAYSIA Malaysia gồm 2 phần bán đảo: Malaysia đông , nằm ở phìa trên Borneo, gồm hai bang Sarawak và Sabah là vùng đồng bằng ven biển rộng lớn còn lại Sabah là vùng đồi núi. Vúng bán đảo Malaysia nằm ở phía nam Thái Lan và bắc Singapor. Malaysia có diện tích 329.750 km2 với khoảng 22 triệu dân. Dân tộc Malaysia 58%, Trung Quốc 26%, Ấn Độ 7%. Còn lại các dân tộc khác. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Bahasa Melayu, ngoài ra còn có tiếng Anh, Trung Quốc, Tamil. Tôn giáo: Đạo Hồi, đạo Phật, đạo Hindu và Thiên chúa giáo. Trước kia là thuộc địa thực dân Anh. Malaysia độc lập vào tháng 7- 1957. 2.1 VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC. Mục tiêu chung: Phát triển trí tuệ, văn hóa, kinh tế, xã hội và tinh thần của mỗi cá nhân, tạo bản sắc dân tộc và sự thống nhất đất nước trong một xã hội đa nguyên thông qua việc trau dồi lý tưởng, giá trị và hoài bảo chung. GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 9 - Giáo dục là quyển cơ bản của mọi công dân được pháp luật bảo vệ. - Công dân có quyển bình đẳng về cơ hội giáo dục và giúp đỡ tài chính không phân biệt giới tính, địa phương. - Giáo dục tiểu học và trung học không phải trả tiền. Các đạo luật giáo dục: Được xây dựng từ 1995. - Đạo luật giáo dục 1996. - Đạo luật hội đồng Quốc gia về các trường đại học 1996. - Đạo luật về các trường đại học tư 1996. - Đạo luật về hội đồng chứng nhận Quốc gia 1996. - Đạo luật về các trường đại học, cao đẳng (bổ sung) 1997. Tài chính: Ngân quỹ giáo dục Malaysia chiếm 5,3% GNP ( 15,5% ngân sách quốc gia). Tỷ lệ HS, SVphân bố theo dân tộc: Bumiputera / Trung Quốc / Ấn Độ là 69/ 26/ 5. 2.2 HỆ THỐNG GIÁO DỤC 2.2.1 GD mầm non: Số trường mầm non tăng nhanh từ 7.000 trường năm 1990 lên gần 10.000 trường năm 1997. Khu vực tư nhân chủ yếu đầu tư vào các trường mầm non ở thành thị còn nhà nước đầu tư cho các trường ở vùng nông thôn và vùng núi. Khoảng 92% là các trường công lập, chương trình mầm non được cải tạo thông qua việc chỉnh sửa, hướng dẫn chương trình, mở rộng đào tạo giáo viên, xây dựng chuẩn tối thiểu, đa dạng hóa phương pháp giáo dục, chú ý sử dụng thành thục tiếng địa phương và tiếng Anh đơn giản. 2.2.2 Tiểu học và trung học: GD tiểu học được miễn phí cho tất cả trẻ em. Ngôn ngữ được dùng trong các trường tiểu học là tiếng Phổ Thông ( Bahasa Melayu), tiếng Trung Quốc ( Quan thoại) và tiếng Tamil. Năm 1999 số trường tiểu học công lập là 7152. GD trung học trong 5 hoặc 6 năm được chia thành trung học cơ sở và trung học phổ thông. Năm 1997 chính sách giáo dục mở rộng từ 9 lên 11 năm và số học sinh đã tăng lên. Năm 1999 đã có 1586 trường trung học trong đó bao gồm các trường nội trú, dạy nghề, kỹ thuật, tôn giáo và trường đặc biệt. Ngoài ra còn có 23 trường trung cấp MARA của bộ phát triển nông thôn và Quốc gia. Giáo dục trung học phổ thông gồm các ban: Văn chương, Khoa học, Kỹ thuật và dạy nghề. Việc lựa chọn học sinh vào các ban dựa vào kết quả kỳ thi hết lớp 9. Kỳ thi tú tài tổ chức cho học sinh hết lớp 11. GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 10 Sau bậc trung học là chương trình lớp 12 và dự bị đại học. Lớp 12 chuẩn bị cho học sinh chứng chỉ sau trung học phổ thông ( đây là một yêu cầu để HS được vào học ở các khóa đào tạo ở các trường ĐH địa phương. Ngoài ra giáo dục sau đại học còn có các trường MARA và bách khoa. Số học sinh sau trung học năm 1997 là 173497 em chiếm 20% số thanh niên trong độ tuổi. 2.2.3 Giáo dục nghề và kỹ thuật: Để tăng cường cung cấp lao động có kỹ năng, Malaysia đã thực hiện tăng cường đầu vào cho học sinh các truờng dạy nghề và kỹ thuật. ( từ 31.000 em năm 1990 lên 48.000 em năm 1995) HS tốt nghiệp trung học kỹ thuật có thể học tiếp lên cao trong khi tốt nghiệp các trường trung học dạy nghề thì tham gia ngay vào thị trường lao động. 2.2.4 Cao đẳng và đại học: Trường đại học đầu tiên của Malaysia thành lập năm 1949 tại Singapor. Đến năm 1970 Malaysia đã có 10 trường đại học công lập cung cấp các chương trình đại học và sau đại học. Năm 1997 đã có 116376 sv trong 10 trường này. Đây là những trung tâm giáo dục chất lượng cao của Malaysia. Năm 1996 luật sửa đổi về các trường đại học cao đẳng đã cho phép các cơ sở GDĐH được tự chủ nhiều hơn trong quản lý, tài chính và đã phát huy tính năng động tích cực của các trường. Năm 2002, Malaysia có 30 trường đại học bao gồm 16 trường công và 14 trường tư thục. Hiện nay các chương trình học từ xa cũng đang được mở rộng đặc biệt là việc sử dụng siêu hành lang đa phương tiện ( MSC ) Thời gian qua cũng bùng nổ các trường tư thục với các chương trình đào tạo đôi hiệu quả. Giúp Malaysia tiếp cận và nhanh chóng các chương trình tiến bộ của phương tây như Mỹ, Anh, Pháp…Các trường này đã thu hút được nhiều sinh viên nước ngoài vào học và giảm sự thâm hụt về cán cân thanh toán cho Malaysia . 2.2.5 Đào tạo giáo viên : Mục tiêu chính của đào tạo giáo viên hiện nay là tăng số giáo viên tiểu học và trung học đạt chuẩn, đặc biệt với các môn toán, khoa học và tiếng Anh. Năm 2000 Malaysia có 99900 giáo viên trong đó có 37850 giáo viên có trình độ đại học (chiếm 73,5%giáo viên) Malaysia đã cải thiện chính sách đãi ngộ và cơ sở vật chất như nâng lương , đề bạt, phụ cấp cho giáo viên giảng dạy các môn quan trọng, làm việc ở vùng xa xôi, hẻo lánh. Giáo viên cũng có nhiều cơ hội để nâng cao trình độ giảng dạy và quản lý. 2.2.6 Hệ thống giáo dục đại học. Lịch sử hình thành phát triển Nền giáo dục đại học của Malaysia đã xuất hiện từ dưới thời thực dân Anh, năm 1786 ở Malay Archipclago (British Straits). Từ đó trở đi nền giáo dục Malaysia chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi ngành giáo dục Anh quốc. Lịch sử phát triển được chia thành 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: là thời kì mở đầu của nền đại học Malaysia. GIÁO DỤC SO SÁNH VIỆT NAM – MALAYSIA GVHD: TS NGUYỄN VĂN TUẤN HVTH: TRẦN THỊ HẠNH THẢO Trang 11 Năm 1905, trường cao đẳng hoàng gia Edward VII (y học) là trường đầu tiên của Singapo. Năm 1929, thực dân Anh thành lập thêm một trường cao đẳng thứ hai gọi là Raffles. Đây là những trường cao đẳng tinh hoa của cả Singapo và Malaysia. Sau đó hai trường này hợp lại thành đại học Malaysia (MU), chính là trường đại học đầu tiên của Malasia đặt tại Singapo (1949), 1962 chuyển vế Kuala Lumpur khi Malaysia và Singapo tách riêng thành hai nước độc lập. Trường giảng dạy và học tập bằng tiếng Anh. - Giai đoạn hai: Từ 1970 -1980: Năm 1969 đã xảy ra cuộc nổi dậy của những người thuộc các dân tộc thiểu số Bumiputera (gốc Ấn Độ ) đòi quyền bình đẳng và một cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra làm cho các vấn đề dân tộc trở nên hết sức nhạy cảm. Hơn nữa trường đại học tinh hoa MU do thực dân Anh lập nên không mang tính dân tộc của ngừoi Malaysia . Một phong trào đòi “Malaysia hóa giáo dục “ rộng khắp. Nhà nước đã lập thêm 6 trường đại học công lập với mục tiêu và tinh thần dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, tạo cơ hội học tập cho các nhóm dân tộc thiểu số. Ngôn ngữ chính của nhà trường là tiếng Bahasa Malaysia, các trường đại học Hồi Giáo dùng tiếng Ả rập và tiếng Anh . - Giai đoạn 3: Sau 1980 Malaysia mở rộng thêm 9 trường công lập và bùng nổ hệ thống đại học tư thục cho đến tận năm 2000. Việc phát triển nhanh chóng đại học tư thục (14 trường, năm 2002) do nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận trong việc thương mại hóa giáo dục đại học. Bên cạnh đó chính phủ còn mở thêm nhiều trường cao đẳng tại các vùng khác nhau nhằm đưa những chương trình thực hành, kinh nghiệm sản xuất và