Tiểu luận Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá trong các thị trường mới nổi

Bài viết này nghiên cứu mức độ của hiệu ứng truyền dẫn Tỷ giá (ERPT) đến giá cả trong 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ LaTinh, và Trung và Đông Âu. Kết quả của chúng tôi, dựa trên ba mô hình tự hồi quy khác nhau, nó đã đánh đổ một phần sự hiều biết thông thường cho rằng ERPT ảnh hưởng đến chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng luôn luôn là cao hơn trong các quốc gia “mới nổi” hơn là những quốc gia đã phát triển. Đối với các thị trường mới nổi với lạm phát chỉ có một con số (đặc biệt là các nước châu Á), ảnh hưởng của sự truyền dẫn tới chỉ số giá cả nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp và không khác nhau về mức độ đối với các nền kinh tế đã phát triển. Nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ cho một mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ của ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor khi hai quốc gia ngoại lai (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) bị loại ra khỏi bài phân tích. Sau cùng là sự hiện diện của một mối quan hệ cùng chiều giữa độ mở cửa của nền kinh tế trong nhập khẩu và ERPT, mặc dù nó đáng tin cậy về mặt lý thuyết, nhưng lại có rất ít bằng chứng thực nghiệm cho điều này.

pdf31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá trong các thị trường mới nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 1 Tiểu luận HIỆU ỨNG TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ TRONG CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 2 Tóm tắt (Abstract) Bài viết này nghiên cứu mức độ của hiệu ứng truyền dẫn Tỷ giá (ERPT) đến giá cả trong 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ LaTinh, và Trung và Đông Âu. Kết quả của chúng tôi, dựa trên ba mô hình tự hồi quy khác nhau, nó đã đánh đổ một phần sự hiều biết thông thường cho rằng ERPT ảnh hưởng đến chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng luôn luôn là cao hơn trong các quốc gia “mới nổi” hơn là những quốc gia đã phát triển. Đối với các thị trường mới nổi với lạm phát chỉ có một con số (đặc biệt là các nước châu Á), ảnh hưởng của sự truyền dẫn tới chỉ số giá cả nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp và không khác nhau về mức độ đối với các nền kinh tế đã phát triển. Nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ cho một mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ của ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor khi hai quốc gia ngoại lai (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) bị loại ra khỏi bài phân tích. Sau cùng là sự hiện diện của một mối quan hệ cùng chiều giữa độ mở cửa của nền kinh tế trong nhập khẩu và ERPT, mặc dù nó đáng tin cậy về mặt lý thuyết, nhưng lại có rất ít bằng chứng thực nghiệm cho điều này. 1. Giới thiệu (Introduction) Bài nghiên cứu hiện tại xem xét các kết quả từ lý thuyết, nó khám phá độ lớn của ERPT và sự khác nhau giữa các quốc gia bởi mô hình ước lượng tự hồi quy véc tơ (VAR) cho các quốc gia mới nổi và cho các nền kinh tế chủ đạo đã công nghiệp hóa, cụ thể là khu vực Châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản, nó được dùng như một nhóm kiểm soát. Phương pháp phương trình đồng thời được sử dụng nhằm cho phép tác động nội sinh tiềm tàng và cao giữa các biến mà chúng ta quan tâm. Việc bỏ qua dễ dàng sự tác động đồng thời của các biến với nhau, có thể đưa đến trong xu hướng phương trình đồng thời, bởi vì điều này thì thường xuyên được thực hiện trong các phương pháp GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 3 phương trình đơn nhất. Thêm vào đó, việc lựa chọn khung mẫu đang là một yêu cầu bức thiết, bởi vì nó cho phép để phát hiện ra sự phản ứng lại mạnh mẽ của các biến tới những cú sốc bên ngoài qua thời gian. Lý thuyết thì quá xa để ước lượng được hoặc là các mô hình phương trình đơn nhất hoặc hệ thống của các phương trình cho một quốc gia cụ thể, hoặc là thiết lập mô hình phương trình đơn nhất khác lớn hơn cho các quốc gia (ví dụ, Choudhri và Hakura, 2006, và Mihaljek et al., 2000). Trong nghiên cứu này, thay vào đó chúng tôi áp dụng phương pháp hệ thống tới một số lượng đáng kể của các quốc gia trong ba khu vực thị trường mới nổi của thế giới cụ thể là, Châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Cùng thời gian đó, chúng tôi sử dụng cùng phương pháp trên cho ba nền kinh tế công nghiệp chính, để bảo đảm các kết quả giữa các quốc gia có thể so sánh được. Bằng cách ước lượng cho mỗi quốc gia một mô hình với giới hạn thời gian dài nhất có thể, hơn nữa, chúng tôi tập trung vào mức độ chính xác cao nhất có thể của hiệu ứng truyền dẫn để ước lượng cho mỗi quốc gia. Ở khía cạnh này, một thành phần quan trọng cho việc phân tích được tiến hành đó là việc tạo một cơ sở dữ liệu phù hợp và có thể so sánh được cho mỗi quốc gia ở tần số quý, và đây là thử thách chính để mang lại giá trị cho bộ dữ liệu và chất lượng nghiên cứu cho các quốc gia mới nổi. Điều này cũng đã giúp cho chúng tôi đáp ứng được các yêu cầu của phương pháp hệ thống, đó là dựa trên số lượng các biến cao vừa phải, theo đó để cho phép một cách đầy đủ sự phong phú của các biến và để tránh bỏ sót biến. Sau đó chúng tôi sử dụng các kết quả để kiểm tra sự hiểu biết thông thường cho rằng ERPT ở các thị trường mới nổi thì cao hơn ở các nền kinh tế đã công nghiệp hóa và để điều tra các mẫu của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá giữa chúng trong giới hạn của sự tương quan, theo McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). Có hay không việc ERPT thì cao hơn ở các thị trường mới nổi, và điều này thì rất quan trọng cho việc xác định cân bằng thương mại và nó cũng rất quan trọng cho sự lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái của các quốc gia. Một mức độ cao vừa phải, của hiệu ứng truyền dẫn ở các quốc gia đang phát triển, cũng được viện dẫn như là một nguyên nhân căn bản cho việc “lo sợ thả nổi” đã được chứng minh của các nước đang phát triển. Việc có hay không ERPT GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 4 thì cao hơn ở các thị trường mới nổi cũng rất quan trọng, nó có thể ám chỉ như là những xu hướng toàn cầu hóa, bởi vì hiệu ứng truyền dẫn thấp trong thị trường mới nổi có thể được hiểu rằng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp trong các quốc gia này thì tăng lên và không giảm. Tuy nhiên, những quốc gia mới nối thể hiện một số nét đặc trưng quan trọng mà làm cho nó thật khó để đạt được những ước lượng đáng tin cậy của ERPT. Nhiều quốc gia Châu Á đã thường xuyên theo đuổi chính sách linh hoạt nhằm kiểm soát tỷ giá hối đoái. Các quốc gia Trung và Đông Âu đã trải qua một thay đổi cơ bản của nền kinh tế trong những năm 1990. Cuối cùng, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia Châu Mỹ Latin trải qua những đợt bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh mẽ, đặc trưng bởi tỷ lệ lạm phát rất cao và / hoặc biến động mạnh về tỷ giá hối đoái và lãi suất. Những kết quả của chúng tôi chỉ ủng hộ một phần quan điểm thông thường cho rằng mức độ của ERPT ở các thị trường mới nổi thì cao hơn ở các quốc gia đã phát triển (sử dụng Mỹ, khu vực Châu Âu và Nhật Bản như là mốc chuẩn). Cụ thể hơn, chúng ta tìm thấy rằng lạm phát thấp trong nền kinh tế mới nổi (đặc biệt là các nền kinh tế ở Châu Á) hiệu ứng truyền dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng thì nhỏ hơn. Liên quan đến điều này tức là việc tìm kiếm bằng chứng về mối tương quan thuận giữa hiệu ứng truyền dẫn và lạm phát tại các thị trường mới nổi, bài nghiên cứu này thì ủng hộ hoàn toàn giả thiết của Taylor. Sự kết nối này dường như có ý nghĩa về mặt thống kê, qua tất cả các sự sắp xếp đồng nhất khác nhau khi hai quốc gia ngoại lại bị loại trừ. Như trong lý thuyết có liên quan, vai trò của độ mở cửa của nền kinh tế được tìm thấy nhìn chung là yếu, mặc dù đã kiểm soát mức độ của tỷ lệ lạm phát. Phần còn lại của bài nghiên cứu được kết cấu như sau. Phần 2 và 3 mô tả phương pháp luận và các dữ liệu cho các quốc gia đang xem xét. Phần 4 và 5 trình bày một cách có thứ tự các kết quả thực nghiệm cho mô hình VAR cơ bản và những đặc điểm kỹ thuật khác nhau. Cuối cùng, phần 6 chứa đựng những kết luận chính của chúng tôi. Việc hiểu tác động của biến động tỷ giá lên giá cả là đích đến cuối cùng từ viễn cảnh một chính sách, trong yêu cầu để đo lường phản ứng lại của chính sách tiền tệ phù hợp tới những biến động của tiền tệ. Những nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng, những GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 5 biến động trong tỷ giá hối đoái và giá cả không đi theo một chiều từ những biến động trong tỷ giá dẫn đến những biến động giá cả ở ngắn và trung hạn. Một lý thuyết mở rộng mà đã phát triển qua ba thập kỷ, nó đã nhận ra có quá nhiều lý giải tại sao hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá tới chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng thì không hoàn toàn. Phân tích thực nghiệm cũng cung cấp bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia trong hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá. Một tranh luận lớn trong mối quan hệ này được đề nghị bởi Taylor (2000), người mà đưa ra giả thuyết cho rằng sự phản ứng lại của giá cả tới sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ thuộc một cách hoàn toàn vào lạm phát. 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (Literature review) Qua hai thập kỷ một lượng lý thuyết lớn kinh tế về hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá (ERPT) đã trình bày. Bắt đầu từ những điểm khác nhau, những lý thuyết thực nghiệm nghiên cứu vai trò của ERPT trong các nền kinh tế nhỏ và lớn. Những nghiên cứu tiến hành cho trường hợp của các quốc gia đã phát triển bao gồm Anderton (2003), Campa và Goldberg (2004), Campa et al. (2005), Gagnon và Ihrig (2004), Hahn (2003), Ihrig et al. (2006) và McCarthy (2000). Ngoài ra cũng có một lý thuyết mầm đã áp dụng vào các nền kinh tế mới nổi, bao gồm nhiều so sánh giữa các quốc gia như trong Choudhri và Hakura (2006), Frankel et al. (2005) và Mihaljek et al. (2000). Nhà kinh tế đã làm giả định đơn giản một cách truyền thống rằng giá cả của hàng hóa mậu dịch- được niêm yết cùng lọai tiền tệ - thì được cân bằng giữa các quốc gia, tức là giữ vững điều kiện ngang giá sức mua (PPP). Theo kinh nghiệm, tuy nhiên, giả định này đã tìm thấy rất ít sự ủng hộ, ít nhất trong trường hợp mẫu nhỏ và trong ngắn và trung hạn. Phù hợp với bằng chứng này, các tài liệu lý thuyết đã trình bày trong hai thập niên vừa qua đã cung cấp những lý giải khác nhau tại sao hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá (ERPT) là không hoàn toàn. Trong bài nghiên cứu của Dornbusch (1987), ông đã lý giải nguyên nhân bất hoàn hảo của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá, là xuất phát từ phía các GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 6 doanh nghiệp mà hoạt động trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và điều chỉnh sự tăng giá (và không chỉ có giá) nhằm phản ứng lại với thay đổi trong tỷ giá hối đoái. Burstein et a.l (2003) thay thế bằng việc nhấn mạnh vai trò của các yếu tố đầu vào nội địa (không giao dịch) trong chuỗi phân phối của các mặt hàng mậu dịch. Burstein et al. (2005) chỉ ra các vấn đề đo lường trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI), mà bỏ qua việc điều chỉnh chất lượng của các mặt hàng mậu dịch và bỏ qua việc điều chỉnh lớn trong các tỷ giá hối đoái. Cách lý luận khác nhấn mạnh hơn vai trò của tiền tệ và cách lãnh đạo của các nhà điều hành tài chính, bằng việc bù đắp từng phần tác động của những sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái đến giá cả (Gagnon và Ihrig, 2004). Devereux and Engel (2001) and Bacchetta and van Wincoop (2003) khám phá vai trò của giá đồng nội tệ trong việc làm giảm mức độ của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá (ERPT). Để củng cố cho những phương pháp lý thuyết này, lý thuyết thực nghiệm cho cả các nền kinh tế đã phát triển và mới nổi đã tìm thấy bằng chứng cho bất hoàn hảo của ERP. Những nghiên cứu này cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, dẫn hướng một cách tự nhiên đến với câu hỏi cái gì là nhân tố cơ bản của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá. Đặc biệt, Taylor (2000) đã đưa ra giả thuyết cho rằng sự phản ứng lại của giá cả đến sự biến động của tỷ giá phụ thuộc hoàn toàn vào lạm phát. Lý do cốt lõi cho điều này liên quan đến một mối tương quan thuận giữa mức độ và sự kéo dài của lạm phát, kết hợp với một mối liên hệ giữa lạm phát và sự truyền dẫn. Mối liên kết sau cùng có thể được thể hiện như sau: Lạm phát càng kéo dài thì càng ít biến động tỷ giá, những biến động tỷ giá này chỉ là tạm thời bởi vì ngày càng nhiều các doanh nghiệp sẽ nhận ra các sự biến động đó trong tỷ giá và do vậy họ sẽ phản ứng lại tác động đó bằng việc điều chỉnh giá cả. Bằng chứng có được thông qua các nghiên cứu khác nhau dường như đều ủng hộ cho giả thuyết của Taylor. Các mối quan hệ đồng biến giữa mức độ của hiệu ứng truyền dẫn truyền dẫn và lạm phát dường như nổi bật lên ngày một rõ nét, tuy nhiên, khi các thị trường mới nổi khi được bao gồm trong thời kỳ mẫu thì cần phải xem xét lại (xem trong Choudhri và Hakura đặc biệt là bằng chứng dữ liệu bảng, 2006). Điều này có thể GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 7 là không quá ngạc nhiên, bởi vì tranh luận lý thuyết của Taylor trở nên có ý nghĩa hơn cho tỷ lệ lạm phát cao hơn.3 Một nhân tố quan trọng khác của ERPT, từ một quan điểm lý thuyết đó là mức độ mở cửa thương mại của một quốc gia. Sự kết nối trực tiếp giữa hai biến là cùng chiều: khi một quốc gia càng mở cửa, thì sự biến động trong tỷ giá hối đoái càng lớn, và nó được truyền qua chỉ số giá nhập khẩu vào trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và làm nó thay đổi. Tuy nhiên, bức tranh ngày càng trở nên phức tạp hơn khi chúng tôi xem xét thêm tác động của lạm phát, và nó có thể có tương quan âm với độ mở cửa của nền kinh tế, như đã được tìm thấy theo kinh nghiệm bởi Romer (1993).4 Điều này mang đến một nguyên nhân xâu xa cho kênh gián tiếp mức độ của hiệu ứng truyền dẫn, nhờ đó mà mối quan hệ nghịch biến giữa độ mở cửa của nền kinh tế và lạm phát được xem xét trong giả thiết của Taylor. Hai kênh trực tiếp và gián tiếp đi theo hai hướng trái ngược nhau và nhìn chung thì dấu hiệu của mối tương quan giữa hiệu ứng truyền dẫn và độ mở cửa của nền kinh tế thì có thể là đồng biến hoặc nghịch biến. 3. Phương pháp nghiên cứu (Methodology and data) 3.1 Phương pháp nghiên cứu Bài viết này nghiên cứu mức độ của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá đến giá cả trong 12 thị trường mới nổi ở Châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Để đạt được điều này, chúng tôi sử dụng một chiến lược mẫu đã được trình bày bởi McCarthy (2000) cho các quốc gia phát triển, và được ứng dụng bởi Hahn (2003) tới khu vực Châu Âu. 3 Điều này thì đáng lưu ý rằng hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá thì cũng có thể cao hơn ở các thị trường mới nổi, bởi vì ở khu vực tư có một vài công cụ ngăn cách. Trong một môi trường cạnh tranh không hoàn toàn, điều này có thể ngụ ý rằng tỷ giá hối đoái tác động nhiều hơn vào trong hành vi giá cả. 4 Tác giả cung cấp một lý giải mang tính lý thuyết cho kết quả này, liên quan đến những khó khăn trong việc theo đuổi chính sách ổn định trong các nền kinh tế nhỏ và hội nhập. GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 8 Chúng tôi ước lượng các mô hình tự hồi quy vector (VAR), theo đó các mô hình bao gồm các biến sau: biến đầu ra, tỷ giá hối đoái, chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất ngắn hạn, và giá dầu. Phương pháp tự hồi quy véc tơ này cho phép tác động nội sinh giữa các biến mà chúng ta quan tâm. Những cú sốc tỷ giá hối đoái được nhận ra bằng cách sắp xếp một cách thích hợp các biến mà chúng ta quan tâm và ứng dụng kỹ thuật sắp xếp trật tự các biến. Bởi vì việc sắp xếp các biến rất quan trọng, nên chúng tôi tiến hành phân tích độ nhạy cho các sự sắp xếp trật tự khác nhau của các biến. Vì các mục đích so sánh, chúng tôi cũng ước lượng một số mô hình có thể so sánh với một mốc chuẩn là các nền kinh tế đã phát triển, cụ thể là khu vực Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản. Phân tích được tiến hành bằng việc sử dụng mô hình VAR chuẩn như (1), Yt = c + ∑ ΦiYt − 1 + εt (1) trong đó Yt là vector của các biến nội sinh, c là một vector của các hằng số, Φi ký hiệu các ma trận các hệ số tự hồi qui và εt là một vector của các biến ngoại sinh. Việc xác định các cú sốc cấu trúc được đạt được bằng cách sắp xếp một cách thích hợp các biến mà chúng ta quan tâm và áp dụng ma trận phân rã phương sai của Cholesky tới ma trận hiệp phương sai để giảm phần dư εt. Như một điểm khởi đầu của việc phân tích, mô hình VAR gồm sáu biến tương tự như của McCarthy, 2000 và Hahn, 2003, được trình bày. Mô hình VAR cơ bản đã áp dụng cho các quốc gia khác nhau, bao gồm một chỉ số giá dầu oilt, một biến đầu ra yt, một tỷ giá hối đoái et, chỉ số giá nhập khẩu pimpt , chỉ số giá tiêu dùng CPIt và lãi suất ngắn hạn it. Tỷ giá hối đoái và hai biến giá cả là những biến số chính trong phân tích của chúng tôi. Các biến đầu ra và giá dầu được bao gồm để đạt được các kết quả trên khía cạnh thực của nền kinh tế. Việc bao gồm lãi suất cho phép nó tác động đến mối quan hệ truyền dẫn, bao gồm tác động của chính sách tiền tệ trong thị trường tiền tệ. Trong mô hình cơ bản các biến được sắp xếp như liệt kê ở trên. Việc sử dụng kỹ thuật sắp xếp trật tự các biến với ngụ ý là để nhận diện được các cú sốc tác động một cách đồng thời GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 9 lên các biến tương ứng và những biến này được sắp xếp theo một trật tự sau, nhưng không có ảnh hưởng gì đến các biến đã được sắp xếp trước đó. Do đó, thật là dễ nhận thấy khi sắp xếp các biến ngoại sinh, trong trường hợp của chúng ta thì biến giá dầu sẽ được đặt đầu tiên. Những cú sốc trong biến giá dầu có thể tác động một cách đồng thời lên tất cả các biến khác trong hệ thống nhưng giá dầu thì không bị ảnh hưởng một cách đồng thời bởi bất kỳ một cú sốc nào khác. Các biến tiếp theo trong hệ thống là biến đầu ra và tỷ giá hối đoái. Với sự sắp xếp này, chúng tôi ngầm giả định tác động đồng thời của các cú sốc lên tỷ giá hối đoái, trong khi tác động của các cú sốc tỷ giá lên biến đầu ra thì phải chịu một độ trễ thời gian xác định. Các biến về giá cả được sắp xếp tiếp theo và do đó nó bị tác động một cách đồng thời từ tất cả các cú sốc đã đề cập ở trên. Theo chuỗi giá cả, giá nhập khẩu đi trước giá tiêu dùng, chính điều này cho phép sự tác động đồng thời của những cú sốc giá nhập khẩu lên giá tiêu dùng nhưng không có tác động ngược lại. Biến lãi suất được sắp xếp sau cùng, cho phép thị trường tiền tệ và đặc biệt là chính sách tiền tệ, để phản hồi lại một cách đồng thời tới tất cả các biến trong mô hình. Các đặc điểm kỹ thuật cơ bản trình bày chỉ bao gồm một số chọn lựa phù hợp trong giới hạn về sự đồng nhất của các biến. Do vậy, sau đó chúng tôi tiến hành phân tích độ nhạy sử dụng hai công thức mẫu phù hợp khác. 3.2 Dữ liệu Trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung phân tích các nước từ ba khu vực rộng lớn trên thế giới, châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Hồng Kông), Trung và Đông Âu (Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan) cộng với Thổ Nhĩ Kỳ, và Châu Mỹ La Tinh ( Argentina, Chile và Mexico). Nghiên cứu đã lựa chọn một số quốc gia bao gồm các nước lớn mới nổi trong từng khu vực5. 5 Những nước có diện tích lớn được loại trừ khỏi bài ph ân tích là Brazil bởi vì kết quả chứa đ ựng không hợp lý, mức độ biến động của dữ liệu và lạm ph át hàng năm cao trên 1000 % trong suốt khoảng thời gian từ quý 1năm 1992 đến quý 4 năm 1994. GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Trang 10 Với mỗi quốc gia, chúng tôi lấy dữ liệu quý và dữ liệu được tổng hợp trong thời gian dài nhất có thể. Giá dầu được đại diện bởi một chỉ số giá dầu thô tính bằng đô la Mỹ. Biến đầu ra hay được sử dụng là GDP, nhưng trong một vài trường hợp chúng tôi đã sử dụng chỉ số sản xuất công nghiệp để có được một khoảng thời gian mẫu dài hơn. Đối với tất cả các nước, tỷ giá chúng tôi sử dụng một loạt hiệu quả đáng kể. Hơn nữa, giá nhập khẩu tính bằng nội tệ và giá tiêu dùng cũng được tính toán, ngoại trừ Trung Quốc, chúng tôi hạn chế phân tích đến giá tiêu dùng bởi vì chuỗi giá nhập khẩu thì không có sẵn. Cuối cùng, các công cụ chính sách tiền tệ được đại diện bởi một mức lãi suất ngắn hạn. Bởi vì thời kỳ mẫu được xác định bằng dữ liệu sẵn có6 nên nó thay đổi theo từng nước (xem phụ lục để có mô tả chi tiết nguồn dữ liệu, và các hàng đầu tiên trong Bảng 1 và 2 để biết thời gian mẫu được sử dụng). Một bản tóm tắt các điều kiện kinh tế vĩ mô trung bình tại các thị trường mới nổi trong thời gian mẫu được cung cấp trong Bảng 1. 6 Chúng tôi đã đi theo một sự sắp xếp khi mà chỉ có một nguồn dữ liệu (Thống kê của tổ chức tài chính quốc tế IMF, chỉ số kinh tế chính của OECD, và BIS) theo là các nguồn trong nước (sẵn có thường xuyên thông qua các nhà cung cấp dữ liệu quốc t ế). Sự chú ý đặc biệt được trao cho các nhu cầu về việc có được một bộ dữ liệu phù hợp và tránh gián đoạn do lỗi biên tập dữ liệu. GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo ERPT trong các thị trường mới nổi HVTH: NH đêm 2 – Nhóm 7 Tr
Luận văn liên quan