Tiểu luận Lạm phát mục tiêu (inflation targeting)

Đối với mỗi quốc gia, lạm phát không chỉ được coi là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất ngh iêm trọng do nhữn g tác động mạnh mẽ của nó đến đời sốn g xã hội. Một nền kinh tế có lạm phát ở mức cao, bên cạnh việc giá cả bị bóp méo sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụt giảm đầu tư, kích thích việc chuyển hướng nguồn vốn vào các tài sản nước ngoài, kim loại quý, hay bất độn g sản. Ngoà i ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế và tạo nên sự căn g thẳng về chính trị và xã hội. Do kinh n ghiệm và sự th uận tiện, hầu hết các nước trên thế giới điều hành CSTT thông qua điều chỉnh các mục tiêu trun g gian nh ư khối lượn g tiền hay tỷ giá. T uy nhiên, vào những năm 1990, một số nước công n ghiệp phát triển đã bắt đầu tập trung vào chỉ số lạm phát trong quá trình điều hành CSTT. Nghĩa là, họ tập trun g vào kiểm soát lạm phát (được gọi là lạm phát mục tiêu - Inflation targetin g). Đây là một cơ chế điều hành CSTT mới, đi đầu áp dụng nó là NHTU New ZeaLan d (năm 1990), sau đó là hàng loạt các nước khác thực hiện như: Can ada (năm 1991), Vương quốc Anh (năm 1992), Phần lan, Thụy Điển (1993) v à Australia (cùng năm 1993), Tây Ban Nha (1994). Tại châu Âu có Thụy Sỹ, Na Uy, IreLand đã công bố v ề việc chuyển đổi san g lạm phát mục tiêu trong điều hành CSTT của mình. Nước đầu tiên trong các n ước đan g phát triển áp dụn g lạm phát mục tiêu là Ch ilê, sau đó đến Brazin và I srael. Các nước khác: Cộng hoà Séc, Ba Lan và từ tháng 06/2001 có Hungari

pdf19 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1883 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lạm phát mục tiêu (inflation targeting), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 1 Tiểu luận LẠM PHÁT MỤC TIÊU (INFLATION TARGETING) Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 2 ĐỀ TÀI : LẠM PHÁT MỤC TIÊU (INFLATION TARGETING) I. Giới thiệu: 1. Lạm phát m ục tiêu “xuất hiện” như thế nào? Đối với mỗi quốc gia, lạm phát không chỉ được coi là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất ngh iêm trọng do những tác động mạnh mẽ của nó đến đời sống xã hội. Một nền kinh tế có lạm phát ở mức cao, bên cạnh việc giá cả bị bóp méo sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụt giảm đầu tư, kích thích việc chuyển hướng nguồn vốn vào các tài sản nước ngoài, kim loại quý, hay bất độn g sản. Ngoà i ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế và tạo nên sự căng thẳng về chính trị và xã hội. Do kinh n ghiệm và sự thuận tiện, hầu hết các nước trên thế giới điều hành CSTT thông qua điều chỉnh các mục tiêu trung gian như khối lượng tiền hay tỷ giá. T uy nhiên, vào những năm 1990, một số nước công n ghiệp phát triển đã bắt đầu tập trung vào chỉ số lạm phát trong quá trình điều hành CSTT. Nghĩa là, họ tập trung vào kiểm soát lạm phát (được gọi là lạm phát mục tiêu - Inflation targeting). Đây là một cơ chế điều hành CSTT mới, đi đầu áp dụng nó là NHTU New ZeaLand (năm 1990), sau đó là hàng loạt các nước khác thực hiện nh ư: Canada (năm 1991), Vương quốc Anh (năm 1992), Phần lan, Thụy Điển (1993) và Australia (cùng năm 1993), Tây Ban Nha (1994)... Tại châu Âu có Thụy Sỹ, Na Uy, IreLand đã công bố về việc chuyển đổi sang lạm phát mục tiêu trong điều hành CSTT của mình. Nước đầu t iên trong các n ước đang phát triển áp dụng lạm phát mục tiêu là Ch ilê, sau đó đến Brazin và Israel. Các nước khác: Cộng hoà Séc, Ba Lan và từ tháng 06/2001 có Hungari. Vậy tại sao các quốc gia trên lựa chọn lạm phát mục tiêu? Trước tiên, việc ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát thấp là đóng góp chính cho CSTT làm cho tăng trưởng kinh tế. Và như vậy, Khi NHTU các nước thực h iện CSTT mở rộng để mau chóng đạt được một vài mục tiêu (nh ư tạo thêm việc làm, tăng trưởng kinh tế… ) sẽ dễ dẫn đến gia tăng lạm phát, làm cho giá cả bất ổn định. Điều này vi phạm nguyên tắc ổn định giá cả. Biện pháp thông thường để kiềm chế lạm phát là NHTU thực hiện tăng lãi suất, tuy nhiên hành Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 3 động này sẽ phải hứng chịu nhiều chỉ trích và áp lực từ xã hội hơn là việc làm giảm lãi suất để k ích thích các hoạt độn g k inh tế. Về nguyên tắc, áp dụng lạm phát mục tiêu có nghĩa là x em mục tiêu giảm lạm phát là cao hơn so với các m ục tiêu khác của CSTT ( sản lượng, việc làm …). Nó buộc NHTU nhìn về phía trước, hy sinh các mục tiêu khác trước khi áp lực lạm phát trở nên nghiêm trọng. Lạm phát mục tiêu có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền về tiền tệ xác định rõ ràng lạm phát mục tiêu và thiết lập các thể chế chính x ác để đạt được mục tiêu này. Lạm phát mục tiêu rất minh bạch, ít nhất là trong lý thuyết. NHTU dự báo xu hướng tương lai của lạm phát, dự báo được so sánh với tỷ lệ lạm phát mục tiêu (tỷ lệ lạm phát chính phủ thấy thích hợp cho nền kinh tế); sự khác biệt giữa dự báo và tỷ lệ lạm phát mục tiêu sẽ xác định CSTT được điều chỉnh như thế nào. Các nước đã áp dụng lạm phát mục tiêu tin rằng v iệc này có thể cải thiện cách thiết kế và thực hiện chính sách tiền tệ so với cách thông thường được theo dõ i bởi NHTU. (Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, và Sunil Sharma, năm 1998). “Lạm phát mục tiêu đã trở nên ngày càng phổ biến t rong thập kỷ qua. Là một khuôn khổ chính sách t iền t ệ danh n ghĩa với một cam kết côn g khai và rõ ràng để duy trì kỷ luật kinh tế, lạm phát mục tiêu đang được quảng cáo là một khuôn khổ chung trong giảm và kiểm soát tỷ lệ lạm phát, cải thiện khả năng dự đoán, trách nhiệm và minh bạch”. (Sheridan, 2001). 2. Những yêu cầu cần có để thực hiện được lạm phát mục tiêu? Nguyên tắc khi thực hiện Lạm phát mục tiêu: Thứ nhất, NHTƯ cần có một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT, m ặc dù không có một NHTƯ nào có thể hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính phủ. NHTƯ cần phải được tự do lựa chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu trong giới hạn cho phép. Để thực hiện yêu cầu này, các vấn đề thuộc chính sách tài khoá không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT, các khoản vay từ NHTƯ của chính phủ phải ở mức thấp nhất. Ngoài ra, chính phủ phải có cơ sở nguồn thu rộng rãi và không phải tăng nguồn thu từ việc phát hành thêm tiền. Nếu chi phối về mặt tài khoá tồn tại thì chính sách thuế khoá, chính sách phát hành tiền, hoặc việc Chính phủ yêu cầu NHTƯ giảm lãi suất để tăng thuế… sẽ gây áp lực đến lạm phát và làm vô hiệu hoá hiệu quả của CSTT. Thứ hai, NHTƯ phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu v à không có trách nhiệm với các m ục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỷ giá. Ví dụ, nếu một quốc gia duy trì chế độ tỷ giá cố định, trong điều kiện các luồng vốn dịch chuyển mạnh nh ư h iện nay thì không thề cùng một lúc thực hiện được lạm phát mục tiêu. Hơn nữa là khi NHTƯ duy trì cùng lúc ha i hay nhiều mục tiêu thì khi thị trường xấu Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 4 đi, không biết mục tiêu nào sẽ được ưu tiên thực hiện. Ví dụ, khi xuất hiện mối đe doạ đến tỷ giá, NHTƯ buộc phải lựa chọn: hoặc duy trì tỷ giá cố định, từ bỏ m ục tiêu lạm phát; hoặc bảo vệ chính sách lạm phát mục tiêu, hy sinh tỷ giá cố định. Sau khi thỏa mãn hai yêu cầu cơ bản, một quốc gia có thể, t rong lý thuyết, thực h iện chính sách t iền tệ tập t rung vào lạm phát mục tiêu. Trong thực tế, các cơ quan có thẩm quyền cũng phải thực hiện các bước sơ bộ nhất định. Họ phải thiết lập các mục tiêu định lượng rõ ràng cho lạm phát cho một số thời kỳ trước. Họ phải ch ỉ ra rõ ràng và không mập mờ cho công chúng rằng việc đạt đến lạm phát mục tiêu được ưu tiên hơn tất cả các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ. Họ phải thiết lập một mô hình hoặc phương pháp dự báo lạm phát mà sử dụng một số các chỉ số có chứa thông tin về lạm phát trong tương lai. Cuối cùng, họ phải nghĩ ra một thủ tục điều hành hướng tới tương lai trong đó công cụ chính sách tiền tệ được điều ch ỉnh phù hợp với đánh giá của lạm phát trong tương lai để đạt các mục tiêu lựa chọn. Các cơ quan tiền tệ phải có năng lực kỹ thuật để mô hình hoá và dự báo lạm phát, biết độ trễ của thời gian giữa việc điều chỉnh các công cụ tiền tệ và ảnh hưởng của ch úng trên tỷ lệ lạm phát, và có m ột cái nhìn đầy đủ thông tin về hiệu quả tương đối của các công cụ chính sách t iền tệ xử lý của họ. II. C ác nghiên cứu xung quanh việc thực hiện lạm phát mục tiêu: 1. Tác động của lạm phát mục tiêu lên nền kinh tế như thế nào? Trong số các n ghiên cứu trước đó về chế độ lạm phát mục tiêu, Svensson (1997) tuyên bố rằng chế độ này giúp giảm tính biến thiên của lạm phát và lập luận rằng nếu chế độ IT linh hoạt h ơn thì nó cũng có thể giúp trong việc ổn định năng suất. Bernanke et al.(1999) phác thảo vai trò của chế độ lạm phát mục tiêu tron g v iệc neo kỳ vọng lạm phát của công chúng, tuyên bố rằn g chế độ này cung cấp một kế hoạch rõ ràng và chỉ đạo cho các nhà ho ạch định chính sách tiền tệ. Điều này sẽ giúp ổn định lạm phát. Mishkin (1999) lập luận r ằng các quốc gia theo lạm phát mục tiêu quản lý để giảm cả lạm phát hiện tại và kỳ vọng quá mức mà có thể đạt được trong sự v ắng mặt của chế độ. King (2002) cho thấy rằng tỷ lệ lạm phát tại các quốc gia lạm phát mục tiêu không chỉ thấp hơn, mà còn ít biến động. Neumann và Hagen (2002) lập luận rằng chế độ lạm phát mục tiêu giúp các quốc gia với nền kinh tế kém để bắt kịp, vì nó thúc đẩy sự hội tụ giữa các nước. Johnson (2002) sử dụng một mẫu của 5 nước phát triển lạm phát m ục tiêu và 6 nước phát triển không theo lạm phát mục tiêu, và tìm thấy rằn g chế độ lạm phát mục tiêu làm giảm lạm phát kỳ vọng. Tanuwi djaja và C hoy (2006) sử dụng một mô hình vĩ mô nhỏ để đoán xu hướng cho n ền kinh tế Indonesia và đề n ghị rằng bằng Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 5 cách công bố một mục tiêu lạm phát, Ngân hàng Indonesia (BI) có thể lấy được độ tin cậy giúp làm giảm và ổn định lạm phát . Gần đây, Goncalves và Salles (2008) sử dụng các dữ liệu cho 36 nước đang p hát triển (trong đó có 13 theo lạm phát mục tiêu) trong giai đoạn 198 0-2005 và cho thấy rằng các quốc gia theo lạm phát mục tiêu có mức giảm lớn hơn trong tỷ lệ lạm phát và biến độn g của tỷ lệ tăng trưởng GDP. Kết quả của họ ngụ ý rằng các chế độ lạm phát mục tiêu có thể có ảnh hưởng đáng kể h ơn vào nền kinh tế v ĩ mô của các nước đang ph át triển hơn so với những n gười phát triển, đơn giản ch ỉ vì các nước sau n ày không bắt đầu với lạm phát nghiêm trọng. Civicir và Akcaglayan (2010) sử dụng một phương trình phản ứng tổng quát cho các Ngân hàn g Trung ương của n ước Cộn g hoà Thổ Nhĩ Kỳ (CBRT) và lập luận r ằng việc thực hiện chế độ lạm phát mục tiêu đã tăng độ tin cậy của CBRT. Các tác giả kết luận r ằng lạm phát mục tiêu đáng tin cậy có thể neo kỳ vọng lạm phát và làm giảm tỷ giá vào lạm phát Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác, nghi ngờ về những lợi ích của chế độ lạm phát mục tiêu. Sử dụng một mẫu của 20 nước phát triển theo và không theo lạm phát m ục tiêu, B all và Sheridan (2005) cho thấy tỷ lệ lạm phát suy giảm ở các nước không theo lạm phát mục tiêu cũng như các quốc gia theo lạm phát mục tiêu. Do đó , họ kết luận rằng lý do của sự sụt giảm trong tỷ lệ lạm phát không ph ải là việc thôn g qua các chế độ lạm phát mục tiêu, mà đó ch ỉ đơn giản là có nghĩa là sự quay l ại lạm phát trước đây. Sử dụng các dữ liệu cho 7 quốc gia công nghiệp thông qua chế độ lạm phát mục tiêu trong những năm 1990, Lin và Ye (2007) lập luận rằng chế độ lạm phát mục tiêu không có tác động đáng kể đến tỷ lệ lạm phát hoặc biến động. Sims (2005) cho thấy rằng chế độ lạm phát mục tiêu có thể có hại hơn là hữu dụng, nếu có m ột cơ hộ i đáng kể mà các ngân hàng trung ương sẽ không thể k iểm soát đường đi của lạm ph át.  Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, and Sunil Sharma (1998) cho thấy rằng các nước (Canada, New Zealand, Thụy Điển, Anh, Phần Lan, và Tây Ban Nha) có áp dụng lạm phát mục tiêu (trong năm 1988-92) đã làm giảm tỷ lệ lạm phát nhiều hơn so v ới các nước công nghiệp lớn và kể từ đó họ duy trì mức độ lạm phát tương đương với các nền kinh tế công n gh iệp lớn. Hiệu quả của v iệc thực hiện lạm phát mục tiêu cho thấy rằng cách việc sử dụng lạm phát mục tiêu rất hữu ích cho những quốc gia vốn thiếu uy t ín trong việc chống lạm phát. Mặc dù lạm phát đã giảm, nhưng kèm theo nó là tỷ lệ thất nghiệp cao hơn ở hầu như cả bảy nước. (1 thất bại của IT ). So sánh tỷ lệ thất nghiệp ở các quốc gia có sử dụng Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 6 lạm phát mục tiêu với các nước côn g n ghiệp lớn cho thấy rằng tỷ lệ thất ngh iệp trung bình tăng đáng kể trong những năm 1990, nhưng từ năm 1994 có xu hướng trở lại hướng tới mức độ của các nước côn g n ghiệp lớn.  Alan Bollard andO zer Karagedikli Alan Bollard and Ozer Karagedikli (2006) đề cập đến các tính năng của phương pháp tiếp cận mục tiêu lạm phát của New Zealand. Những tính năng này được ràng buộc ch ặt chẽ vào các cơ cấu lập pháp của Ngân hàng Dự trữ Luật New Zealand (1989). Kinh nghiệm của New Zealand thi thực thi lạm phát mục tiêu đã thành côn g lớn, mặc dù không phải là không có những thách thức. Tuy nh iên, có nhiều thay đổ i từ kh i bắt đầu thực thi lạm phát mục tiêu về vấn đề làm thế nào để quản lý chính sách : Mục tiêu lạm phát của New Zealand đã được thay đổi trong phạm vi từ 0-2% thành 1-3 %, ghi nhận những rủi ro giảm phát và các vấn đề khác. Ngoài lạm phát thấp, nền kinh tế New Zealand cũng đã đạt được tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp. Các hình thức lạm phát mục tiêu đi tiên phong của Ngân h àng Dự trữ New Zealand đã được áp dụng ở nhiều nước trong nh ững năm qua. Mặc dù có nhiều sự khác biệt trong các quốc gia khác nh au tron g quá trình thực h iện chính sách lạm phát mục tiêu, có hai điểm chính mà New Zealand tiếp tục khác biệt. Đầu tiên là quá trình ra quyết định của New Zealand, nơi Thống đốc là người quyết định duy nhất. Tuy nhiên, mặc dù Thống đốc ra quyết định cuối cùng duy nhất, vẫn có một Ủy ban cố vấn đưa ra lời khuyên bằng văn bản cho Thống đốc. Mặc dù này tư vấn Ủy ban không được yêu cầu của Đạo luật, nó đã được thực hiện. Sự khác biệt thứ hai là mức độ minh bạch cao. Đặc biệt trong việc công bố những tài liệu theo dõ i tỷ lệ lạm phát của NewLand, Ngân hàng Dự trữ New Zealand có thể được mô tả như là một trong những NHTƯ minh bạch nhất trong số nước áp dụng lạm phát mục tiêu.  Raghbendra Jha (2008) đánh giá các việc thực hiện lạm phát m ục tiêu ở Ấn Độ, bắt đầu bằng cách nêu rõ các m ục tiêu của chính sách t iền tệ tại Ấn Độ và lập luận rằng kiểm soát lạm phát không thể là một mối quan t âm riêng của chính sách tiền tệ khi vẫn còn h iện diện của sự đó i n ghèo lan rộng. Các chính sách t iền tệ ở Ân Độ đang bị giới hạn bởi:  Tự do hóa thị trường tài chính chưa hoàn chỉnh nên sự tác động của lãi suất là không đầy đủ. Hơn n ữa hệ thống ngân h àng có yếu tố độc quyền mạnh mẽ và ch ính phủ sở hữu cổ phần áp đảo... Sự phát triển của đội ngũ có trách nh iệm cùng với thâm hụt ngân sách cao đã làm trầm trọng thêm những khó khăn của chính sách tiền tệ trong bối cảnh của Ấn Độ. Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 7  Việc xây dựng đa mục tiêu theo đuổi của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI) có ý nghĩa và cho rằng chính sách tiền tệ nên được theo đuổi để duy trì lãi suất và tỷ lệ lạm phát ổn định và tiền tệ bị định giá thấp để tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, chính sách này đã dẫn đến dòng vốn chảy vào lớn, dường như không bền vững nếu không có lý do khác hơn so với thực tế là khoản dự trữ dòn g vốn đó thu hút các sản lượng thấp. Do đó, tại Ấn Độ chưa thể thực thi lạm phát mục tiêu. Bài nghiên cứu cung cấp vài bằng chứng về ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu lên phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi và tranh cãi rằng mặc dù lạm phát mục tiêu có chịu trách nhiệm về v iệc duy trì chế độ lạm phát thấp nhưng về căn bản tự nó không kéo giảm tỷ lệ lạm phát. Hơn nữa, tính dễ biến động của tỷ giá và sản lượng đầu ra ở các nền kinh tế chuyển đổi có áp dụng lạm phát mục tiêu thì cao hơn ở các nền kinh tế phát triển. Thực tế thì Ấn Độ chưa sẵn sàng để thực hiện lạm phát mục tiêu, mặc dù RBI m uốn làm, nhưng vẫn không thể thực thi lạm phát mục tiêu trong bố i cảnh lãi suất ngắn hạn không có ảnh hưởng có ý nghĩa lên tỷ lệ lạm phát. Do vậy, hai gói ch ính sách để giải quyết vấn đề này đã được thảo luận.  Một là: hướng tới điều chỉnh tài chính và tiền tệ mở rộng.  Hai là: đánh giá cao tỷ giá hối đoái thực (phù hợp nhiều hơn so với áp dụng lạm phát mục tiêu) Cả hai ch ính sách này sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát thấp và giảm dòng vốn nước ngoài, và do đó, dự trữ quốc gia được giải quyết ở mức giá nh ất định. Kể từ kh i tăng trưởng xuất khẩu nhanh chóng, nó tạp ra cảm giác sai lầm về việc đánh giá thấp tỷ giá hối đoái. Điều này sẽ cho phép Ấn Độ nắm giữ một phần lớn hơn của thị trường thế giới. Xuất khẩu ngày càng tăng, lần lượt, nâng cao kh uyến khích đầu tư. Xu h ướng tiết kiệm cũng tăng lên để đáp ứng với lợi nhuận tăng đầu tư theo định hướng xuất khẩu. Hơn nữa, một tỷ giá hối đoái bị định giá thấp là có khả năng thúc đẩy tiết kiệm bằng cách tăng cổ phần của lợi nhuận trong thu nhập quốc dân. Ấn Độ đã được thực hiện một số hình thức của tỷ giá hối đoái thực sự nhắm m ục tiêu dẫn tới sự gia tăng mạnh dự trữ n goại hối, điều này đã đi kèm với chi phí kinh tế cao. Theo đuổi chính sách lạm phát mục tiêu làm giảm nhu cầu dự trữ lớn nhưng giá phải trả là khả năng của một tỷ giá hối đoái không ổn định hoặc khôn g phù hợp. Hoạch định chính sách của Ấn Độ là khôn ngoan để từ chối chế độ này và chọn tham gia quản lý có chọn lọc các dòn g vốn.Tuy nhiên, dự trữ hiện nay ở một mức độ rất thoải mái nhưng vẫn t iếp tục tăng với một tốc độ nhanh chón g.  Bushra và Syed Kumail Abbas (2009) Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 8 Bài nghiên cứu này nhằm mục đích đo lường và so sánh hiệu quả kinh tế của bốn nền kinh tế châu Á ( gồm In donesia, Phillipines, Nam Triều Tiên, và Thái Lan) chấp nhận và thực hiện lạm phát m ục tiêu ngược lại với sáu nước lân cận khác (Trung Quốc, Hồn g Kông, Ấn Độ, Malaysia, Singapore và Pakistan). Nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng chứng tỏ lạm phát mục tiêu giúp làm tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu của Goncalves và Salles năm 2008 và Batini và Laxt ion năm 2007 (trong cùng thời điểm) nhưng cũng không tìm thấy bằng chứng lạm phát mục tiêu có hại cho tăng trưởng kinh tế. Một phát hiện quan trọng là NHTƯ ở các nước lạm phát mục tiêu thì không có trách nhiệm nặng nề với sự thay đổi của lạm phát . Điều này l àm sáng tỏ: “ở các nền kinh tế Châu Á, dữ liệu nghiên cứu không hỗ trợ trường hợp áp dụng lạm phát mục tiêu”.  Irineu de Carvalho Filho (2010) tìm thấy các chứng cứ chưa rõ ràn g rằng các nước dùng chính sách lạm phát mục tiêu giải quyết tốt vấn đề tỷ lệ thất nghiệp và nước sử dụng chính sách lạm phát mục tiêu có sự sản xuất công ngh iệp hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn các nước không. Cuố i cùng, chúng ta thấy được rằng các nước áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu có tỷ lệ tăng trưởng GDP cao hơn các nước khôn g sử dụng chính sách này trong cùng một nhóm nước (Vd: các nước phát triển, các nước đang phát triển-các nước không phải Mới Nổi), nhưng lại không tìm thấy sự khác biệt như vậy ở các n ước mới nổ i.  Salem Abo-Zaid and Didem Tuzemen (2011) cho thấy rằng chế độ lạm phát mục tiêu có lợi ích quan trọng cho cả hai nước phát triển và đang phát triển. Tác giả cho thấy rằng tỷ lệ lạm phát thấp hơn đáng kể trong các nước đang phát triển theo lạm phát mục tiêu, v à ch ế độ này có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng GDP cho tất cả các nước theo lạm phát mục tiêu . Ngoà i r a, kết quả của n ghiên cứu n ày chỉ ra một sự hội t ụ rõ ràng của tỷ lệ tăng trưởng GDP trong số các nước lạm phát mục tiêu đang phát triển sau khi thông qua chế độ này. Cuố i cùng, tác giả thấy rằng chính sách tài khóa được tiến hành thắt chặt khi các nước phát triển nhắm đến lạm phát. 2. Kinh nghiệm khi áp dụng lạm phát m ục tiêu như thế nào?  Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, and Sunil Sharma (1998)  Kinh nghiệm của các nước công nghiệp: Trong thập kỷ qua, lạm phát mục tiêu đã được lựa chọn và thực hiện (theo thứ tự thời gian) ở New Zealand, Canada, Anh, Phần Lan, Thụy Điển, Australia, và Tây Ban Nha. Kinh nghiệm từ các kết quả không tốt đẹp với việc thiết lập các mục tiêu tiền tệ trung gian hoặc duy trì tỷ giá cố định đã thúc đẩy sự đổi mới ở hầu hết các quốc gia này. Tại New Zealand và Canada, ban đầu các Chính ph ủ giới thiệu các mục tiêu để chống lại giảm phát. Sự thành công của hai quốc gia này trong việc kiềm chế lạm phát cao một cách Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012 9 tương đối (theo t iêu chuẩn c ủa các nước công n ghiệp) đã thúc đẩy một phần sự chấp nhận và thực hiện các chính sách tương tự ở năm quốc gia khác, nơi mà, trái lại, tỷ lệ lạm phát đang ở mức tương đối thấp. Bảy quốc gia cùng đã có những “thành tích” nghèo nàn tron g cuộc chiến chống lạm phát trong vòng 30 năm qua nếu đem so sánh với Đức, Nhật Bản, Thụy Sĩ, và Hoa Kỳ. Hơn nữa, những người tham gia thị t rường nói chung luôn nhận thức rằng nhóm bảy nước n ày thiếu chính sách t iền tệ đáng tin cậy. Có thể suy đoán rằng, lạm phát mục tiêu là sự sáng tạo mà nhờ đó các nước này tìm ra cách xây dựng một “kỷ lục” về lạm phát thấp và chính sách tiền tệ có uy t ín. Ở các n ước này, tỷ lệ lạm phát là mục tiêu chính của chính sá
Luận văn liên quan