Tiểu luận Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD

Việc vay nợ quá mức của chính quyền địa phương được coi là một trong những nguy hiểm của việc phân cấp trong quản lý tài chính. Mặt khác, phân cấp quản lý tài chính có thể đảm bảo sự ổn định tài chính của khu vực công bằng cách hạn chế quyền chi phối thái qu á của chính phủ. Bởi vì tác động của phân cấp quản lý trên kết quả tài chính là mơ hồ từ góc độ lý thuyết nên chúng tôi tìm đáp án cho câu hỏi này theo kinh nghiệm bằng việc nghiên cứu theo dữ liệu bảng của 17 nước trong khối OECD trong giai đoạn 1975-2001. Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng: Phân cấp chi tiêu làm giảm đáng kể nợ công, trong khi phân cấp thuế và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc là không đáng kể.

pdf40 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD Tiểu luận MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÂN CẤP TÀI KHÓA VÀ NỢ CÔNG Ở CÁC NƯỚC OECD Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 1 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD MỤC LỤC TÓM TẮT .................................................................................................................................4 1. GIỚI THIỆU.........................................................................................................................4 2 . TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ............................................................................................5 3. DỮ LIỆU.............................................................................................................................11 3.1. Đo lường mức độ phân cấp........................................................................................11 3.2. Biến phụ thuộc và độc lập..........................................................................................14 3.3. Mối quan hệ hai chiều ................................................................................................20 4. MÔ TẢ CHI TIẾT .............................................................................................................23 4.1. Tính dừng .....................................................................................................................23 4.2. Mô hình kinh tế lượng ................................................................................................24 5. KẾT QUẢ ...........................................................................................................................25 5.1. Kết quả cơ bản .............................................................................................................25 5.2. Kiểm tra tính vững ......................................................................................................28 5.2.1. Kiểm tra tính vững cơ bản (chung) ....................................................................28 5.2.2 .Yếu tố ngoại sinh....................................................................................................32 5.2.3. Các yếu tố nội sinh ................................................................................................35 6. KẾT LUẬN ........................................................................................................................39 Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 2 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD BẢNG B IỂU Bảng 1: Định nghĩa và nguồn của đo lường phân cấp.......................................................12 Bảng 2: Tó m tắt thống kê cho đo lường phân cấp .............................................................13 Bảng 3: Tương quan chéo giữa các đo lường phân cấp ....................................................13 Bảng 4 – Định nghĩa và nguồn các biến..............................................................................15 Bảng 5 : Tó m tắt thống kê cho biến độc lập và phụ thuộc (mô hình cơ bản) .................16 Bảng 6 – Tóm tắt thống kê cho các biến sử dụng mô hình tính vững và GMM ............17 Bảng 7 - Kiểm định nghiệm đơn vị......................................................................................22 Bảng 8 : Đo lường hồi quy sự thay đổi của tỷ lệ nợ trên GDP theo phân cấp giai đoạn 1975 - 2001 .............................................................................................................................26 Bảng 9 – Hồi quy sự thay đổi của tỉ lệ nợ trên GDP trên đo lường phân cấp, giai đoạn 1975-2001, kiểm tra tính vững. ............................................................................................30 Bảng 10 – Hồi quy sự thay đổi của tỉ lệ nợ trên GDP trên đo lường phân cấp, giai đoạn 1975-2001, các ngoại lệ..........................................................................................................33 Bảng 11 – Hồi quy sự thay đổi của tỉ lệ nợ trên GDP trên phân cấp đo lường, giai đoạn 1975-2001, ước lượng GMM .................................................................................................36 Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 3 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÂN C ẤP TÀI KHÓA VÀ NỢ CÔNG Ở CÁC NƯỚC OECD TÓM TẮT Việc vay nợ quá mức của chính quyền địa phương được coi là một trong những nguy hiểm của việc phân cấp trong quản lý tài chính. Mặt khác, phân cấp quản lý tài chính có thể đảm bảo sự ổn định tài chính của khu vực công bằng cách hạn chế quyền chi phối thái quá của chính phủ. Bởi vì tác động của phân cấp quản lý trên kết quả tài chính là mơ hồ từ góc độ lý thuyết nên chúng tôi tìm đáp án cho câu hỏi này theo kinh nghiệm bằng việc nghiên cứu theo dữ liệu bảng của 17 nước trong khối OECD trong giai đoạn 1975-2001. Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng: Phân cấp chi tiêu làm giảm đáng kể nợ công, trong khi phân cấp thuế và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc là không đáng kể. Keywords: Phân cấp tài khóa – Nợ công – Giới hạn ngân sách JEL Classification H71 · H77 · H30 1. GIỚI THIỆU Phân cấp khu vực công đã trở thành một mục tiêu chính sách quan trọng của các tổ chức quốc tế lớn. Ví dụ Ngân hàng thế giới cho rằng, phân cấp tài khóa, khi thực hiện đầy đủ, có thể làm giảm sự mất ổn định chính trị, nâng cao hiệu quả của chính phủ, và đóng góp vào tổng mức phúc lợi (Ngân hàng Thế giới 2000), và vì thế nó đã hỗ trợ phân cấp các dự án trong nước của các quốc gia trong suốt hai thập kỷ qua (theo Nhóm đánh giá độc lập của Ngân hàng Thế giới năm 2008). Trong phạm vi kinh tế, giả định phân cấp tài khoá mang lại lợi ích chủ yếu xuất phát từ hai quan điểm. Đầu tiên, từ lý thuyết phân cấp nổi tiếng của Oates 1972, Tiebout 1956, nói rằng phân quyền cung cấp hàng hoá công có khả năng giải quyết vấn đề sở thích khác nhau giữa các cư dân khác nhau về địa lý và văn hóa; và thứ hai, từ truyền thống lựa chọn công, lập luận rằng sự phân chia của nhà nước vào nhiều cấp và sự tồn tại của thể chế cạnh tranh hạn chế khả năng độc quyền của các chính phủ Leviathan đánh thuế quá mức lên công dân (Brennan và Buchanan năm 1980). Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 4 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD Cái nhìn này về phân cấp tài khoá bị nhiều chỉ trích, và một số nhược điểm tiềm tàng đã được xác định trong các nghiên cứu. Ví dụ, phân cấp quản lý tài chính có thể làm giảm khả năng thực hiện các chính sách ổn định và phân phối lại thu nhập của chính phủ (Musgrave 1959). Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nhận thức cho rằng, phân cấp tài khóa có thể bóp méo các ưu đãi của các chính trị gia địa phương và liên bang nếu nó bị thiết kế kém. Nguyên nhân của nhược điểm này là do các quốc gia thực hiện phân cấp dễ bị mất ổn định kinh tế vĩ mô, thâm hụt ngân sách cao hơn, và mức độ nợ cũng không ổn định (Goodspeed 2002). Tuy nhiên, cả hai lý thuyết nghiên cứu chỉ đưa ra rằng phân cấp quản lý tài khóa dẫn đến kết quả tài chính và kinh tế gần như tối ưu, còn bằng chứng kinh tế có hệ thống vẫn còn khan hiếm. Do đó bài viết này nhằm mục đích khám phá thực nghiệm hiệu lực của tuyên bố này với dữ liệu bảng cho 17 quốc gia trong khối OECD trong giai đoạn 1975-2001. Vì mục đích này, chúng tôi xem xét trong phần 2 nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết về phân cấp quản lý tài chính và tài chính công kỹ lưỡng hơn. Trong phần 3, chúng tôi mô tả cách triển khai các quan điểm chung về phân cấp quản lý tài khóa, và thảo luận về các biến phụ thuộc và các biến độc lập được sử dụng trong phân tích kinh tế. Trong phần 4, chúng tôi thảo luận về đặc điểm kỹ thuật và giới thiệu các mô hình thực nghiệm.Trong phần 5 trình bày kết quả và trong phần 6, chúng tôi đưa ra kết luận. 2 . TỔNG QUAN LÝ THUYẾT Một trường phái lý thuyết quan trọng về tài khóa liên bang cho rằng phân cấp đe dọa đến sự ổn định tài chính của khu vực công bằng cách thực hiện "ràng buộc ngân sách mềm".1Trong những lý thuyết liên quan, giả định có một mối quan hệ phân phối chính giữa chính phủ liên bang và địa phương, và điều kiện rủi ro đạo đức có thể thắng thế trên một phần sau này. Ví dụ, Goodspeed (2002) phát triển một mô hình bao gồm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, chính quyền địa phương cung cấp hàng hoá công bằng nguồn thu thuế hoặc đi vay. Mục tiêu của chính phủ liên bang là tối đa hóa khả năng tái tranh cử của mình. Khả năng này được mô phỏng như một chức năng của các cấp chi tiêu ròng trong mỗi thẩm quyền. Kể từ giai đoạn thứ hai, chi tiêu ròng trong một thẩm quyền bị 1 Xem Kornai et al. (2003) về tr anh cãi rộng rãi xung quanh các khái ni ệm ràng buộc ngân sách mềm Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 5 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD giảm do nợ giai đoạn đầu tiên bởi vì chính quyền địa phương phải trả nợ gốc và lãi, chính phủ liên bang có thể tăng chi tiêu ròng và khả năng tái tranh cử của mình bằng cách cho phép chuyển giao tài trợ tài chính thích hợp. Những ưu đãi của chính phủ liên bang được đưa vào tài khoản của chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu tiên, tức là, khi chúng tôi quyết định mức vay, sẽ làm cho việc đi vay của địa phương không có hiệu quả cao. 2 Ngoài các khái niệm ràng buộc ngân sách mềm, có thay thế, tại sao phân cấp tài khóa lại có thể liên quan đến sự mất cân bằng tài khóa. Một trường phái lý thuyết liên quan đến tác động của các chương trình chuyển giao liên chính phủ. Ý tưởng cơ bản đằng sau những phương pháp tiếp cận là chuyển giao theo chiều dọc có thể đóng góp vào các vấn đề chung. Nếu chính phủ liên bang phân bổ tài trợ cho khu vực pháp lý địa phương, sau này có động cơ xuất hiện như thể chúng tôi thiếu thốn: Chúng tôi có thể đưa ra mức thâm hụt cao để "chứng minh" rằng chúng tôi đang được tài trợ. Bởi vì chi phí cận biên của các quỹ liên bang được phân phối trên toàn liên bang trong khi những lợi ích tập trung trong mỗi thẩm quyền cá nhân, hành vi như vậy là hợp lý từ quan điểm của từng chính quyền địa phương (Weingast et al. 1981). Một trường phái lý thuyết liên quan đến "kỹ thuật" phối hợp các chính sách của các cấp khác nhau của chính phủ. Nếu có một số chính phủ độc lập có thể chi tiêu và đánh thuế theo quyết định của riêng mình, một chính sách tài khóa phối hợp có thể không được duy trì, và thể hiện trong một thâm hụt ngân sách thiên vị ở tất cả các cấp chính quyền (De Mello, 1999). Trong khi một s ố lượng đáng kể các nghiên cứu liên quan giải quyết vấn đề các quốc gia được phân cấp biểu hiện một xu hướng thâm hụt, chỉ có vài nghiên cứu cố gắng cho rằng phân cấp tài khóa có thể gây ra bởi các chính trị gia địa phương và liên bang để giảm mức độ nợ nần. Do đó, lập luận gián tiếp hơn, thực chất là giải quyết vấn đề khác nhau, phải được rút ra. Lý thuyết lựa chọn công đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này. Trong lý thuyết này, các chính phủ tối đa hóa các khoản thu, và phân cấp quản lý tài khóa được cho là để buộc các chính phủ kiềm chế thuế việc chiếm thuế vì người dân có thể rời khỏi khu vực pháp lý mà chính phủ hoạt động để tối đa hoá doanh thu 2 Wildasin (1997) phát triển một mô hình có liên quan để nghiên cứu hậu quả của ràng buộc ngân s ách mềm trong quan hệ liên chính phủ cho phúc lợi xã hội. Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 6 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD (Hayek 1939, Brennan và Buchanan 1980).3 Ngoài ra, trái với quan điểm truyền thống rằng thỏa thuận chia sẻ thuế và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc dẫn đến không hiệu quả bằng cách cho phép các chính phủ "thông đồng" và do đó tránh được những áp lực cạnh tranh tạo ra bởi phân cấp tài khóa, có một số tranh luận trong tài liệu này gợi ý rằng chúng tôi có thể được nâng cao phúc lợi xã hội. Ví dụ, Köthenbürger (2005) cho thấy rằng các chương trình cân bằng có thể bổ sung cho cạnh tranh thuế trong việc đạt được hiệu quả hơn bằng cách gián tiếp "đánh thuế" nguồn thu từ thuế bởi chính phủ Leviathan độc quyền khu vực công. Những tranh luận sự lựa chọn công có thể được điều chỉnh thẳng thắn để giải thích nợ công, bằng cách cho rằng mức nợ nên thấp hơn khi công dân có gánh nặng thuế trong tương lai vào tài khoản trong quyết định có thể thay đổi của chúng tôi, hoặc nếu chúng được vốn hóa vào giá tài sản sở hữu. Câu hỏi về cách phân cấp tài khóa có liên quan đến sự tích tụ nợ chưa được khám phá trong nghiên cứu thực nghiệm.Thay vào đó, tác động của phân cấp tài khóa theo quy mô của chính phủ dường như đã khơi dậy sự quan tâm của các nhà kinh tế ứng dụng.4 Oates (1985), ví dụ, Brennan và Buchanan khám phá giả thuyết Leviathan với dữ liệu cấp nhà nước Mỹ và với các dữ liệu quốc tế, nhưng không tìm thấy một mối quan hệ quan trọng. Mặt khác, sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian ở cấp liên bang, Marlow (1988) thấy rằng phân cấp tài khóa có liên quan tiêu cực với tổng quy mô chính phủ tại Hoa Kỳ. Trong một nghiên cứu với dữ liệu bảng trên 32 quốc gia công nghiệp và đang phát triển, Jin và Zou (2002) đưa đến những kết luận khác biệt hơn bằng cách phân tách các khái niệm chung của phân cấp tài khóa vào "đại diện" khác nhau. Có nghĩa là, 3 Ý t ưởng cho rằng cạnh tranh giữa các tổ chức công có t hể cải thiện chức năng của chính phủ không chỉ áp dụng cho các cơ quan thu thuế ngang giữa chính quyền địa phương. Ví dụ, Eichenberger và Schelker (2007) cho t hấy các bang Thụy Sĩ tồn tại Ủy ban Tài chính, được bầu riêng rẽ với các chính phủ đánh giá độc l ập của các quyết định ngân sách, dẫn đến gánh nặng thuế nhỏ hơn. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng có một số đóng góp cho rằng nếu chỉ có sự cạnh tranh của các tổ chức công là không đủ để t ạo ra kết quả hiệu quả, ví dụ như, Apolte (2001). 4 Ngoài ra còn có một số nghiên cứu điều tra về tác động của phân cấp tài khoá bằng biến số thực nghiệm phi tàichính. Ví dụ, Fisman và Gatti (2002) cho thấy các bang của nước Mỹ chuyển giao li ên bang có liên quan đến tỉ lệ kết án lạm dụng chức vụ công. Chúng tôi kết luận trên cơ sở sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc và ràng buộc ngân sách mềm có thể dẫn đến tỷ lệ cao hơn của tham nhũng. Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 7 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD chúng tôi nhận ra rằng phân cấp tài khóa hoặc có thể liên hệ đến chi tiêu hoặc doanh thu của ngân sách, và rằng những tác động có thể thay đổi tùy theo mặt ngân sách được xem xét. Thật vậy, chúng tôi phát hiện ra sự tồn tại của hiệu ứng xung đột. Kết quả của chúng tôi xác nhận rằng điều quan trọng là nhận thức được phân cấp tài khóa như một khái niệm chung trong đó bao gồm các khía cạnh khác nhau. Đó là, chi tiêu công, phân cấp nguồn thu, và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc (ví dụ, sự khác biệt giữa chi phí địa phương và tự chủ thu) phải được coi là đại diện khác nhau và độc lập với phân cấp quản lý tài chính, và phân tích như vậy. Thực tế là chỉ có một số ít nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý tài khóa về nợ chính phủ, không có nghĩa là các nhà nghiên cứu đã không cố gắng phân tích các yếu tố quyết định của nợ công nói chung. Ngược lại, có nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, và có sự công nhận những đóng góp trong đó là quan trọng đối với các đặc điểm kỹ thuật chính xác của các mô hình kinh tế dưới đây. Bởi vì phương pháp tiếp cận truyền thống giải thích các mức độ khác nhau của nợ giữa các quốc gia không đầy đủ,5 các tài liệu gần đây có xu hướng tập trung vào giải thích mang tính chính trị (Alesina và Perotti 1995). Một hướng nghiên cứu tìm hiểu xem liệu có sự khác biệt về ý thức hệ trong chính sách cho vay của chính phủ. Hai nghiên cứu đáng chú ý là Neck và Getzner (2001), người đã tiến hành một nghiên cứu về các yếu tố kinh tế - chính trị của tăng trưởng nợ công tại Áo và Seitz (2000), đã phân tích các yếu tố quyết định thâm hụt ngân sách địa phương ở Đức. Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu, đều tìm thấy rằng các tác nhân kinh tế nói chung là có liên quan hơn là biến ý thức hệ. Một trường phái khác nghiên cứu về các yếu tố chính trị quyết định nợ công tìm hiểu sự phân tách của chính phủ (trong hệ thống nghị viện) hoặc, tương ứng, phân chia chính phủ (trong hệ thống tổng thống) có ảnh hưởng đến kết quả tài chính. Kỳ vọng lý thuyết là khi các chính phủ bao gồm nhiều đối tác liên minh (hệ thống nghị viện) hoặc khi các bên khác nhau kiểm soát nhiệm kỳ tổng thống và cơ quan lập pháp (hệ thống tổng thống) thì nghiêm trọng hơn. Volkerink và de Haan (2001) thực sự thấy rằng một số hình thức của chính phủ bị phân tách dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn hơn. Tuy nhiên, Elgie và McMenamin (2008) cho thấy kết quả của chúng tôi không thể được 5 Có nghĩ a là, những đóng góp mà nhận thức s ự cần thiết phải "ổn định mức tiêu dùng" v à "ổn địnhkinh tế vĩ mô" như các y ếu tố quy ết định chính của chính sách vay nợ của chính phủ Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 8 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD nhân rộng theo cách thông thường khi một mẫu khác nhau được sử dụng. Tác động của các tổ chức tài chính vay công cũng được phân tích trong một số nghiên cứu. Feld và Kirchgässner (2001), ví dụ, cho rằng các tổ chức dân chủ trực tiếp như trưng cầu ngân sách có thể ngăn chặn các hành động không hiệu quả và hoạt động ích kỷ của các chính trị gia, người hoạt động trong khuôn khổ chung của một nền dân chủ đại diện. Trong phân tích thực nghiệm của chúng tôi với các dữ liệu bảng trên thành phố của Thụy Sĩ, chúng tôi thực sự thấy rằng thể chế dân chủ trực tiếp như vậy dẫn đến việc giảm nợ công. Đối với Hoa Kỳ, Kiewiet và Szakaly (1996) đi đến kết luận tương tự cho "nợ được bảo lãnh". Một tài liệu liên quan đến nghiên cứu tác động của quy trình hoạch định ngân sách trên tích lũy nợ. Cả quy tắc số cũng như các thủ tục đã được phân tích. Ví dụ về các quy tắc số là các yêu cầu cân đối ngân sách trong tiểu bang Hoa Kỳ hoặc các tiêu chuẩn Maastricht quy định, giới hạn trên đối với nợ công và/hoặc thâm hụt. Quy định thủ tục, mặt khác, liên quan đến nghiêm ngặt của các thủ tục chi phối các giai đoạn khác nhau mà tại đó ngân sách được xây dựng. Ví dụ Cabasés et al. (2007), khám phá những hiệu quả của hạn chế vay với các dữ liệu trên thành phố Tây Ban Nha, và thấy rằng chúng tôi áp đặt một s ố kỷ luật về chính sách vay mượn của chính quyền địa phương. Lagona và Padovano (2007) chỉ trích phương pháp luận với những tác động của quy tắc ngân sách thường được phân tích. Chúng tôi cho rằng ứng dụng các chỉ số để đo nghiêm ngặt các quy tắc ngụ ý sự cần thiết phải phân loại tùy ý. Thay vào đó, chúng tôi đề xuất một phương pháp tiếp cận chủ yếu phân tích thành phần phi tuyến. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi cũng chỉ ra rằng các quy tắc nghiêm ngặt hơn dẫn đến cân đối tài chính lớn hơn và kích thước nhỏ hơn ngân sách. Sử dụng dữ liệu trên tiểu bang Hoa Kỳ, Bohn và Inman (1996) cũng xác nhận việc phát hiện các kết quả tài chính có liên quan đáng kể đến các quy tắc ngân sách. Như đã nói ở trên, chỉ có một vài nghiên cứu thực nghiệm mà chủ yếu xem xét các tác động của phân cấp tài khóa trên cân bằng tài chính.6 De Mello (2000) tập trung 6 Có một số nghiên cứu có kiểm soát đối với các tác động của phân cấp quản lý tài chính giải quyết những vấn đề quan tâm kh ác nhau.Ví dụ, Singh và Plekhanov (2005) s ử dụng trong một nghiên cứu hiệu quả của phân cấp tài khoá dùng giới hạn trong vay địa phương l à một biến kiểm soát. Chúng tôi tì m thấy trong một số mô hình phân cấp quản lý có xu hướng tăng đáng k ể thâm hụt ngân sách địa phương. Nhưng câu hỏi này không phải là trọng tâm chính của phân tích, kết luận này nên được xem là kết quả sơ bộ Nhóm 2 – TCDN Đêm 3 9 Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD vào tác động của phân cấp quản lý tài chính về thâm hụt của chính phủ liên bang và địa phương riêng biệt. Ông thấ
Luận văn liên quan