Tiểu luận Mối quan hệ giữa chi tiêu công và nghèo đói: bằng chứng thực nghiệm và giải pháp ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Nghèo đói là một vấn đề mang tính toàn cầu, không những ảnh hưởng đến các nước đang phát triển mà còn cả những nước phát triển. Có nhiều biện pháp để xóa đói giảm nghèo mà việc quản lí và chi tiêu công hợp lý là một trong những biện pháp có thể tác động khá lớn đến việc giảm tỉ lệ nghèo. Nhận ra được vấn đề này nhóm chúng em đã làm bài tiểu luận này nhằm làm rõ những ảnh hưởng của chi tiêu công tới đói nghèo. Mối quan hệ giữa nghèo đói trong ngắn hạn và dài hạn với các biến số khác trong bài nghiên cứu đã được được xác định bởi mô hình ECM và kiểm định đồng liên kết Johansen tương ứng. Bên cạnh đó chúng em cũng mở rộng xem những tác động của chi tiêu công tới nghèo đói ở Việt Nam như thế nào, sử dụng mô hình OLS để kiểm định thực nghiệm và đề ra những giải pháp cho Việt Nam.

docx29 trang | Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 80162 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa chi tiêu công và nghèo đói: bằng chứng thực nghiệm và giải pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ CÔNG NGHIỆP LONG AN ----------000----------- BÀI TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH CÔNG “MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU CÔNG VÀ NGHÈO ĐÓI: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP Ở VIỆT NAM” Danh sách nhóm: 6 - Nguyễn Trọng Điệp - Phạm Hoàng Long - Ngô Hoàng Đạt Thịnh -Nguyễn Thị Hồng Hoa - Trương Thị Hoa Phượng - Tô Bá Trọng - Châu Thanh Phăng - Lê Thị Thanh Quyên LỜI MỞ ĐẦU Nghèo đói là một vấn đề mang tính toàn cầu, không những ảnh hưởng đến các nước đang phát triển mà còn cả những nước phát triển. Có nhiều biện pháp để xóa đói giảm nghèo mà việc quản lí và chi tiêu công hợp lý là một trong những biện pháp có thể tác động khá lớn đến việc giảm tỉ lệ nghèo. Nhận ra được vấn đề này nhóm chúng em đã làm bài tiểu luận này nhằm làm rõ những ảnh hưởng của chi tiêu công tới đói nghèo. Mối quan hệ giữa nghèo đói trong ngắn hạn và dài hạn với các biến số khác trong bài nghiên cứu đã được được xác định bởi mô hình ECM và kiểm định đồng liên kết Johansen tương ứng. Bên cạnh đó chúng em cũng mở rộng xem những tác động của chi tiêu công tới nghèo đói ở Việt Nam như thế nào, sử dụng mô hình OLS để kiểm định thực nghiệm và đề ra những giải pháp cho Việt Nam. Trong bài tiểu luận, nhóm có sử dụng những tư liệu từ những bài nghiên cứu của nước ngoài và những số liệu thống kê từ những năm trước từ nhiều nguồn. Do sự hiểu biết và kiến thức còn hạn chế nên cũng không thể tránh khỏi những sai sót mong Thầy xem xét và góp ý để bài tiểu luận của nhóm có thể hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn./. MỤC LỤC BÀI NGHIÊN CỨU: MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI TIÊU CÔNG VÀ NGHÈO ĐÓI Ở PAKISTAN : PHÂN TÍCH ĐỒNG LIÊN KẾT 1.Giới thiệu Nghiên cứu này phân tích quan hệ dài hạn cũng như ngắn hạn của thâm hụt ngân sách và sự nghèo đói. Kết quả này chỉ ra một mối quan hệ ngược chiều giữa chi tiêu công và nghèo đói dựa trên dữ liệu 1976-2010. Mối quan hệ dài và ngắn hạn giữa đói nghèo và các biến số khác được xác định bởi mô hình ECM và kiểm định đồng liên kết Johnsontương ứng. Chi tiêu công góp vai trò quan trọng vào việc giảm nghèo đói. Theo Keynes, chi tiêu công có thể làm tăng tổng cầu, đặc biệt điều này kích thích tăng trưởng kinh tế và việc làm. Nhiều nghiên cứu cho thấy chi tiêu chính phủ tác động tích cực với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, gia tăng chi tiêu công có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách.Nhưng nếu chính phủ giảm chi tiêu sẽ tạo ảnh hưởng xấu đến kinh tế. Sự dư thừa chi tiêu chính phủ cho các chi tiêu hiện tại hay sử dụng không hiệu quả khả năng thu thuế sẽ tạo ra thâm hụt ngân sách. Nhiều nhà kinh tế tin rằng thâm hụt ngân sách là nguyên nhân gốc rễ của các bệnh thuộc nền kinh tế. Thâm hụt ngân sách có thể có hại cho phúc lợi vì nhiều lý do, chẳng hạn : nó có thể dẫn đến phân bổ không hiệu quả các nguồn lực và lấn át đầu tư tư nhân. Hơn nữa, việc tăng tỷ lệ nợ trong GDP có tác động tiêu cực đến ổn định tài chính dài hạn của đất nước và ảnh hưởng đến lợi ích của các thế hệ sau. Nhiều nghiên cứu phát hiện rằng có tồn tại một mối quan hệ ý nghĩa giữa thâm hụt ngân sách và nhiều biến số kinh tế vĩ mô. Thâm hụt ngân sách kéo dài sẽ tạo ra tác động bóp méo nền kinh tế, gây ra lạm phát cao, tăng trưởng thấp và lấn át đầu tư tư nhân và tiêu dùng trong thời gian dài. Các biến số đề cập ở trên còn gây ra sự nghèo đói và giảm phúc lợi xã hội trong nền kinh tế. Sự tài trợ thâm hụt ngân sách tạo ra vấn đề nghiêm trọng tới việc xóa đói giảm nghèo. Hầu hết các nước đang phát triển, thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng vay nợ trong và ngoài nước. Việc vay trong nước ảnh hưởng đến lãi suất và giảm chi tiêu tư nhân trong dài hạn. Trong khi vay nợ nước ngoài dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai và tăng giá trị tỷ giá hối đoái làm giảm xuất khẩu ròng của đất nước. Mặc dù thâm hụt ngân sách cao gây tổn hại cho nền kinh tế và làm tăng nghèo đói nhưng nếu nó tăng lên do khoản chi tiêu phát triển nó có thể giúp giảm nghèo đói trong dài hạn thông qua việc tăng năng suất và việc làm. Ở Pakistan chính phủ giảm chi tiêu công để giảm thâm hụt ngân sách sau khi tham gia chương trình điều chỉnh cơ cấu của IMF điều này gây tăng đói nghèo do giảm trợ cấp và chi tiêu phát triển. Zaidi (2005) cho rằng ở thập niên 80, nghèo đói ở Pakistangiảm do tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lượng kiều hối lớn, và một khu vực công hoang phí hoạt động. Ở thập niên chín mươi, nghèo đói tăng do tham gia chương trình điều chỉnh cơ cấu của IMF. Điều này nhấn mạnh việc giảm thâm hụt ngân sách thông qua tăng thuế, cắt giảm chi tiêu phát triển và giảm hay loại bỏ các khoản trợ cấp là đầu vào quan trọng của cuộc sống hàng ngày. Mặt khác, đầu tư tư nhân và đầu tư khu vực nhà nước được bổ sung như vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng. Những tác động suy giảm trong đầu tư công đối với tăng trưởng là nghiêm trọng. Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa chi tiêu công và nghèo đói cùng với đầu tư tư nhân, kiều hối và tuyển học sinh trung học để sử dụng như một nguồn nhân lực. Mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và giảm nghèo đói ở Pakistan được điều tra bằng cách dùng mô hình hiệu chỉnh sai số và Đồng liên kết Johnson. 2. Các tài liệu nghiên cứu Nhiều nghiên cứu cho thấy chi tiêu chính phủ có quan hệ với tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, nhưng do chi tiêu cao của các nước đang phát triển đang phải đối mặt với vấn đề tài thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách dẫn đến lạm phát trong nền kinh tế. Ở nhiều nước đang phát triển thâm hụt ngân sách cao lấn át đầu tư tư nhân trong thời gian dài, làm giảm việc làm và sản lượng đầu ra ảnh hưởng xấu đến đói nghèo. Zafar và Mustafa (1998) phân tích quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan. Họ kết luận rằng thâm hụt ngân sách tỷ lệ nghịch với sự tăng trưởng kinh tế và đầu ra của nó được xem như là một dấu hiệu của sự bất ổn kinh tế vĩ mô. Mặt khác, thâm hụt ngân sách làm giảm sản lượng thông qua các loại thuế và chi thường xuyên gây ảnh hưởng xấu đến năng suất khu vực tư nhân và lấn át đầu tư tư nhân cũng như các hoạt động yếu kém của thị trường tín dụng. Yaya (2010) đã nghiên cứu quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế trong sáu quốc gia và cho ra những kết quả khác nhau. Ba trường hợp đầu ông không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng, trong khi trong ba trường hợp còn lại lại có bằng chứng cho thấy thâm hụt ngân sách tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Chaudhary và Ahmed (1995) đã kiểm định cung tiền, thâm hụt ngân sách và mối quan hệ lạm phát ở trường hợp của Pakistan. Họ kết luận rằng lạm phát tạo ra nghèo đói thông qua việc phân phối lại thu nhập và có sự tồn tại mối quan hệ lâu dài giữa thâm hụt ngân sách và cung tiền. Tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng có thể gây ra lạm phát và được kiểm soát bằng giảm mức độ thâm hụt ngân sách và thực hiện từng bước để thúc đẩy đầu tư tư nhân. Agha Khan (2006) đã phân tích thực nghiệm của sự mất cân bằng tài chính và lạm phát ở Pakistan.Họ phát hiện ra những mối quan hệ ngắn hạn cũng như dài hạn giữa cung tiền, thâm hụt ngân sách và lạm phát, rồi kết luận rằng việc vay vốn ngân hàng sẽ tạo ra lạm phát hơn so với việc không vay vốn ngân hàng. Ngoài ra, chính sách tài khóa mở rộng làm tăng lãi suất và có thể làm cho mọi người ra đầu tư tư nhân và tăng áp lực lạm phát. Metin (1991) đã phân tích các mối quan hệ thực nghiệm giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách cho nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ thông qua phân tích đồng đa biến tích hợp . Ông thấy rằng quy mô thâm hụt ngân sách ảnh hưởng đáng kể đến lạm phát ở Thổ Nhĩ Kỳ. Catao và Terrones (2003) đã kiểm định mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát. Một mối quan hệ cùng chiều mạnh mẽ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát trong nhóm các quốc gia lạm phát cao và đang phát triển đã được nghiên cứu. Soloman và Wet (2004) đã kiểm định tác động của thâm hụt ngân sách đối với lạm phát ở Tanzania và tìm thấy được rằng nền kinh tế chiếc mũ đã trải qua một tỷ lệ lạm phát cao cùng với thâm hụt ngân sách cao. Benneth (2007) đã xem xét vai trò của chính sách tài khóa trong xóa đói giảm nghèo ở nước Nigeria. Ông đã dùng các mô hình cân bằng chung và kết luận: doanh thu của chính phủ cũng như việc tích cực tái phân phối thu nhập nhưng chi tiêu chính phủ là công cụ quan trọng và hiệu quả để phân phối lại thu nhập và xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó,chính sách tài khóa cần được xây dựng theo một cách để tái phân phối thu nhập từ những người giàu cho những người nghèo khác trong xã hội. Hơn nữa tỷ lệ lạm phát cao liên tục sẽ ảnh hưởng đến sự bền vững của thâm hụt ngân sách. Angelo và Sousa (2009) đã tìm thấy mối liên kết giữa tỷ lệ lạm phát cao và thâm hụt lớn đến GDP và thâm hụt ngân sách không ổn định.Tăng trưởng kinh tế có thể tăng thông qua chi tiêu chính phủ. Jamshaid và các cộng sự của ông (2010) đã kiểm định mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu chính phủ, cả hai biến (tổng hợp) và nhiều biến hệ thống (phân tách) đã kết luận rằng tăng trưởng kinh tế gây ra chi tiêu chính phủ ở mức độ hai biến và cũng có thể hỗ trợ làm tăng GDP gây ra tăng trưởng trong chi chính phủ - giả thuyết của Wagner. Bất bình đẳng cũng là yếu tố quan trọng trong làm tăng nghèo đói ở các nước đang phát triển và gây ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế cao đi kèm với việc gia tăng đói nghèo, trong khi một số nguồn cũng cho thấy rằng trong khoảng thời gian tăng trưởng thấp thì nghèo đói giảm. Volker (2005) đã thực hiện nghiên cứu về quá trình phát triển và xóa đói giảm nghèo của Tanzania và làm thế nào để quá trình tư nhân quy mô lớn, tự do hóa tiền tệ và chính sách tài khóa ảnh hưởng đến đói nghèo thông qua các kênh khác nhau như : đầu tư tư nhân và thị trường ngoại hối. Ông lập luận rằng cải cách kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó kết quả tăng trưởng mạnh mẽ và lạm phát thấp tác động đáng kể đến việc giảm đói nghèo. Rashid và Amjad (1997) nghiên cứu các chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của giảm nghèo, tìm được sự tăng trưởng cao hơn mức ngưỡng khoảng 5 phần trăm, tăng việc làm và kiều hối là những biến số quan trọng nhất để giải thích sự thay đổi trong nghèo đói theo thời gian. Họ cũng xem xét các chính sách thuộc Chương trình điều chỉnh cơ cấu tang đói nghèo của IMF . Kaldor (1957) và Bourguignon (1981) cho rằng sự bất bình đẳng lớn hơn có thể dẫn đến tăng trưởng thông qua tích lũy vốn. Ngược lại trong phương pháp tiếp cận hiện đại nhấn mạnh người nghèo không có khả năng đầu tư vào vốn con người và vật chất với những hậu quả bất lợi cho sự phát triển lâu dài trên. Mặt khác Forbes (2000) tìm thấy tác động tích cực của sự bất bình đẳng trong tăng trưởng thu nhập. Rizwan và Kemal (2006) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa kiều hối, tự do hóa thương mại và nghèo đói ở Pakistan trong khuôn khổ cân bằng tổng thể. Họ đã dùng phương pháp phân hủy (nông thôn và thành thị) và thấy rằng tất cả các biện pháp giảm đói nghèo trong các chương trình nông thôn và thành thị nếu kiều hối giảm thì sự đói nghèo sẽ gia tăng. Họ đã kết luận rằng việc giảm kiều hối đóng góp đáng kể trong sự nghèo khó ở Pakistan. Mặt khác , giảm kiều hối và tự do hóa thương mại làm tăng sự bất bình đẳng trong thu nhập và càng làm gia tăng đói nghèo. 3.Đặc điểm của mô hình kĩ thuật Mục đích của bài viết này là để phân tích các mối quan hệ lâu dài giữa chi tiêu của chính phủ và sự thiếu hụt của các biến điều khiển (đầu tư tư nhân, tỉ lệ nhập học và trì hoãn của trường trung học ) POV = f (GE, Pinv, SSE, Rem) (1) Phương trình thực nghiệm là : Povt = βo + β1GEt + β2Pinvt + β3Sset + β4Rem t + ξt (2) Trong đó : Pov = nghèo đói (tỷ lệ nghèo trên đầu người, tỷ lệ nghèo trên đầu người được sử dụng ở đây. P = Q / N trong khi Q = số lượng người nghèo và N là dân số. GE = chi tiêu chính phủ như tỷ lệ phần trăm của GDP (dùng như một đại diện của Thâm hụt ngân sách) Pinv = tư nhân đầu tư bằng một tỷ lệ phần trăm của GDP SSE = tuyển sinh Trung học cơ sở (tỷ lệ phần trăm dân số) Rem = Kiều hối (theo mẫu đăng nhập) Mối quan hệ lâu dài giữa chi tiêu của chính phủ và tăng trưởng kinh tế sẽ giải thích cách tăng trưởng kinh tế để giảm đói nghèo. Nhiều nghiên cứu cho thấy kiều hối đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo. Tuyển học sinh trung học cơ sở làm tăng nguồn nhân lực , làm giảm tỷ lệ thất nghiệp nhưng năng suất thấp hơn. Phương pháp: Để tránh vấn đề được tạo ra bởi các nghiệm đơn vị, trong nghiên cứu này nó được Augmented Dickey sử dụng để kiểm định đầy đủ hơn để xác minh nếu các biến cố đã cân bằng. Đối với dữ liệu không cố định, chúng tôi sẽ thay đổi sai phân bậc 1 để làm cho nó trở nên cân bằng. Chúng tôi còn kiểm định mối quan hệ giữa các biến ngắn hạn và dài hạn nên chúng tôi có thề sử dụng ECM và kiểm định Đồng liên kết Johnson tương ứng. Sau khi áp dụng thử nghiệm gốc cho mỗi biến được điều tra rằng tất cả các biến cố định như sự khác biệt đầu tiên vì vậy chúng tôi sẽ áp dụng kiểm định đồng liên kết Johson để tìm ra mối quan hệ giữa các biến ngắn hạn và dài hạn. Giả thuyết của ADF là loại có nghiệm đơn vị. ΔYt = Ψo + δt + Ψ1Yt-1 + βΣ ΔYt-1 (3) Phương trình trên cho thấy xu hướng và độ lệch của ADF Kiểm định đồng liên kết dài hạn : Trong mối quan hệ lâu dài, chúng tôi đã áp dụng thử nghiệm về tỷ lệ khả năng dựa trên giá trị riêng tối đa và chỉ ra số liệu thống kê trong ma trận ngẫu nhiên của Johansen( 1988 ). Các điều kiện cần thiết cho đồng liên kết Johnson là tất cả các biến phải được cân bằng tại cùng một bậc. Mô hình hiệu chỉnh sai số : Mô hình hiệu chỉnh sai số được áp dụng để kiểm định các mối quan hệ ngắn hạn giữa các biến. Vì vậy, chúng tôi sẽ áp dụng phương pháp ECM để tìm ra các mối quan hệ ngắn hạn giữa đói nghèo và các biến. Vì vậy, giá trị của hệ số μ nên có ý nghĩa và ngược chiều để cho bạn biết chúng tôi đã đi xa thế nào trong trạng thái cân bằng và cho thấy trạng thái cân bằng của các biến ngắn hạn. ΔPovt = βo + β1ΔGEt + β2ΔPinvt + β3ΔSset + β4ΔRem t + β5μt-1 + ξt (4) Trong đó Δ chỉ ra sự khác biệt đầu tiên của tất cả các biến. 4. Dữ liệu và bằng chứng thực nghiệm ở Pakistan Chuỗi dữ liệu hằng năm từ 1976 đến 2010 được thu thập từ các nguồn đa dạng trong cuộc khảo sát về nền kinh tế Pakistan , báo cáo của SBP, các chỉ số của World Development và các báo cáo của SPDC. Chuỗi thời gian có vấn đề về nghiệm đơn vị. Các kết quả kiểm định của Augmented Dickey Fuller (ADF) trong bảng 1 giả định rằng tất cả các biến được liên kết ở sai phân bậc 1. Bảng 1 Kiểm định nghiệm đơn vị (ADF với sự phân tán và xu hướng ) Biến Bậc Sai phân bậc 1 GE -2.4 -5.9* POV -2.238 -8.986* SSE 0.47 -4.52 PINV -1.8 -4.7* REMT -0.036 -4.159** (*) Mức ý nghĩa 1% (**) Mức ý nghĩa 5% Tất cả 3 biến trên là không cố định ở mức ý nghĩa nhưng được thấy là sẽ cố định ở mức khác biệt đầu tiên. Chú ý : Tiêu chí thông tin của Schwarz được dùng để lựa chọn độ trễ tối ưu. Một khi các chuỗi có thể được cố định bằng việc sử dụng sai phân bậc 1, chúng có thể được dùng trong phân tích hồi quy bằng cách áp dụng kỹ thuật đồng liên kết, được dùng trong quan hệ dài hạn giữa các biến.Bảng 2 giả định rằng có sự tồn tại quan hệ dài hạn giữa các biến.Cả giá trị riêng tối đa và số liệu thống kê đều cho thấy 5 công thức đồng liên kết tại mức ý nghĩa 5%.Bảng 3 giả định rằng chi tiêu công, kiều hối và tuyển sinh vào trường trung học là đáng kể và có dấu hiệu tiêu cực.Trong lúc đầu tư tư nhân đang có dấu hiệu tiêu cực nhưng được thống kê là không đáng kể.Dấu hiệu tiêu cực trong chi tiêu công đồng nghĩa rằng có một sự trái ngược giữa chi tiêu công và nghèo đói. Nó cho thấy rằng chi tiêu công tiết kiệm làm tăng các hoạt động kinh tế và giải pháp đầu ra cho việc giảm nghèo đói. Bảng 4 cho thấy các kết quả của Mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM). Dấu hiệu tiêu cực và tầm quan trọng của mức EC chỉ ra rằng có tồn tại các mối quan hệ ngắn hạn giữa nghèo đói và chi tiêu công và nó tốn mất 2 năm để có thể đạt được trạng thái cân bằng. Phương trình gốc (5) cho thấy mối quan hệ dài hạn giữa nghèo đói và chi tiêu công cùng với các biến điều khiển : Pov= -8.93GEt -0.39Pinvt -4.472Sset -0.002Remt (5) Bảng 2 : Kiểm định thứ bậc đồng liên kết không hạn chế Johnson Giả định các số thứ tự của CE Giả định Theo dõi Thống kê Max Eigen Thống kê Giá trị tới hạn Thống kê Giá trị tới hạn Không* H0; r=0 H1; r≥1 171.57 68.81 58.56 33.87 Nhiều nhất 1* H0; r=1 H1; r≥2 113.01 47.85 51.06 27.58 Nhiều nhất 2* H0; r=2 H1; r≥3 61.95 29.79 32.15 21.13 Nhiều nhất 3* H0; r=3 H1; r≥4 29.79 15.49 19.15 14.26 Nhiều nhất 4* H0; r=4 H1; r≥5 10.64 3.84 10.64 3.84 (*) biểu thị sự bác bỏ giả định ở mức 0.05 Bảng 3 : Các hệ số đồng liên kết bình thường Biến phụ thuộc POV GE -0.893 SSE -4.472 REMT -0.002 PINV -0.039 Bảng 4 : Mô hình hiệu chỉnh sai số Các biến Hệ số Thống kê sai số Thống kê t Xác suất D(GE) -0.3044 0.1406 -2.1648 0.0394 EC(-1) -0.03551 0.1636 -2.1706 0.0389 5. Kết luận Do chi tiêu công nhiều và sự gia tăng lượng kiều hối nên giảm thiểu được nghèo đói. Chi tiêu của chính phủ kích thích nền kinh tế trong dài hạn thông qua sự gia tăng trong tổng cầu. Nghiên cứu này phải được kiểm định rằng có tồn tại hay không mối quan hệ giữa đói nghèo và chi tiêu công cùng với kiều hối và nguồn nhân lực. Các kết quả của chúng tôi dựa trên giả định rằng có một mối quan hệ dài hạn giữa các biến.Chi tiêu công và đói nghèo có một mối quan hệ trái chiều nhau. Sự sụt giảm mạnh của đói nghèo được quan sát sau năm 2002 có thể là do sự tăng trưởng của kiều hối sau sự kiên 11 tháng 9 từ khắp nơi trên thế giới. Chi tiêu công hoặc là một sự chi tiêu tích cực dẫn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế trong dài hạn nhưng không may là trong trường hợp của các nước đang phát triển như Pakistan thì sự cân đối tài chính và ngân sách có thể đạt được thông qua kiếm chế chi đầu tư phát triển, nó có thể gây ra các hiệu ứng tiêu cực đối với sản xuất và hiệu quả kinh tế của cả hệ thống. Mặt khác, chi tiêu công có nguồn tài chính phù hợp, các nguồn tài trợ đặc biệt trong các khoảng thời gian xác định sẽ mang lại hiệu quả cao. Nó có thể làm tăng đầu tư tư nhân, tăng cơ hội việc làm, vốn con người thông qua giáo dục và chi tiêu cho y tế để giảm đói nghèo. Kết quả cho thấy rằng có mối quan hệ tiêu cực giữa chi tiêu công và đói nghèo, nếu như cần chi tiêu để có sự phát triển như phát triển về cơ sở vật chất xã hội, cơ sở vật chất công cộng, cơ sở hạ tầng, trên nữa là sự tạo vốn, y tế và giáo dục chính vì vậy nó có thể giảm thiểu đói nghèo trong dài hạn. Vậy nên vấn đề thực sự cần được cân nhắc ở đây là cấu trúc của chi tiêu công. Nhưng thường là sự gia tăng trong chi tiêu công gây ra thâm hụt ngân sách và do đó sẽ bóp méo nền kinh tế. Các chính phủ cần phải có các biện pháp đa dạng để giảm thiểu sự mất cân bằng như cắt giảm chi đầu tư phát triển, trợ cấp, chi tiêu xã hội, v.v những khoản chi có thể ảnh hưởng tới phúc lợi. Nếu việc giảm thiểu thâm hụt ngân sách là một vấn đề cần được quan tâm thì chính phủ có thể giảm thiểu bằng cách gia tăng sản xuất và tăng trưởng hơn là việc cắt giảm chi tiêu. MỞ RỘNG NGHIÊN CỨU TẠI VIỆT NAM Mối quan hệ giữa chi tiêu công và nghèo đói ở Việt Nam Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới, trong thực tế luôn có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến và Việt Nam không phải là ngoại lệ.Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế.Những khoản chi chúng ta vẫn thường gọi là chi phát triển kinh tế.Chúng bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều có liên quan trực tiếp đến việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển kinh tế.Loại chi tiêu công này được mong đợi là góp phần nâng cao sản lượng của nền kinh tế.Các khoản chi tiêu này được biết đến như là các khoản chi cho đầu tư và phát triển. Một số những khoản chi tiêu này là chi tiêu cho nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải và thông tin, thương mại và công nghiệp, năng lượng và một số khoản chi khác. Bảng 1: Tổng hợp chi tiêu công của Việt Nam Nguồn: Báo cáo của IMF, Niên giám thống kê tài chính quốc tế năm1996, 1998, 2
Luận văn liên quan