Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật luôn luôn xảy ra mâu thuẫn.Đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân hay mâu thuẫn giữa các sự vật với nhau.Triết học Mac-Lenin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn.Xác định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ giúp con người tìm ra các giải pháp phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển.Từ đó,ta vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đầu thập niên 1980,Đảng Cộng Sản đã khởi xướng Chính Sách Đổi Mới, được thông qua trong Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI và bắt đầu thực hiện trên toàn quốc. Chính Sách Đổi Mới này đã tạo nên quá trình chuyển biến trong nền kinh tế nước ta: từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình đổi mới, Nhà Nước đã chấp nhận sự tồn tại, bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh tế mà kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt những thành tựu to lớn : chặn đứng khủng hoảng kinh tế; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; nâng cao các mặt phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh sự phát triển về văn hóa, xã hội, chính trị, .Tuy nhiên, trong những thành công luôn tồn tại những điểm mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới, ví dụ: sự phân hóa giàu nghèo,ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, v.v. Đây là những hạn chế đòi hỏi cần có sự quan tâm và phương pháp giải quyết nhằm thúc đẩy sự đi lên của nước ta, đưa nước ta thực sự trở thành nền kinh tế thị trường, sánh vai cùng các nước trên thế giới.

doc13 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 24714 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ********** TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA Sinh viên thực hiện : Nguyễn Khánh Ly Mã sinh viên : 1217710109 Lớp : Anh 3, Khối 1, TATM, khóa 51 Giảng viên hướng dẫn : ThS Nguyễn Tùng Lâm Hà Nội,12/2012 Mục lục Lời mở đầu Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật luôn luôn xảy ra mâu thuẫn.Đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân hay mâu thuẫn giữa các sự vật với nhau.Triết học Mac-Lenin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn.Xác định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ giúp con người tìm ra các giải pháp phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển.Từ đó,ta vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đầu thập niên 1980,Đảng Cộng Sản đã khởi xướng Chính Sách Đổi Mới, được thông qua trong Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI và bắt đầu thực hiện trên toàn quốc. Chính Sách Đổi Mới này đã tạo nên quá trình chuyển biến trong nền kinh tế nước ta: từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình đổi mới, Nhà Nước đã chấp nhận sự tồn tại, bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh tế mà kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt những thành tựu to lớn : chặn đứng khủng hoảng kinh tế; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; nâng cao các mặt phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh sự phát triển về văn hóa, xã hội, chính trị, ...Tuy nhiên, trong những thành công luôn tồn tại những điểm mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới, ví dụ: sự phân hóa giàu nghèo,ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, v.v. Đây là những hạn chế đòi hỏi cần có sự quan tâm và phương pháp giải quyết nhằm thúc đẩy sự đi lên của nước ta, đưa nước ta thực sự trở thành nền kinh tế thị trường, sánh vai cùng các nước trên thế giới. Với tính cấp thiết như trên cùng mong muốn tìm hiểu sâu về nền kinh tế nước ta, quan điểm lí luận cũng như những giải pháp giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong quá trình phát triển kinh tế, em chọn đề tài “ Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta” để viết tiểu luận Triết học Mác-Lênin. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, bài tiểu luận của em không tránh khỏi những sai sót. Em mong thầy cô giáo có thể đóng góp ý kiến để giúp bài tiểu luận của em được hoàn thiện.Em xin chân thành cảm ơn! Phần I: Lý luận phép biện chứng về mâu thuẫn 1. Khái niệm mâu thuẫn và tính chất chung của mâu thuẫn 1.1 Khái niệm mâu thuẫn Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo nên mâu thuẫn là các mặt đối lập – là những đặc điểm, những thuộc tính, những tính qui định có khuynh hướng trái ngược tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Ví dụ: điện tích âm-điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa-dị hóa trong một cơ thể sống, chân lý và sai lầm trong quá trình phất triển nhận thức, v.v... Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở tác động ngang nhau của chúng. Hai mặt đối lập còn tồn tại trong sự đấu tranh với nhau; qua đó, các mặt đối lập có sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. 1.2 Các tính chất chung của mâu thuẫn +) Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến: Phép biện chứng duy vật khẳng định tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn .Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật ,hiện tượng quy đinh. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tương.Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện,xuyên suốt quá trình phát triển, cho tới khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. +) Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thẻ bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Mâu thuẫn được phân chia thành nhiều loại: mâu thuẫn bên trong/bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản/không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu/thứ yếu, v.v... Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn. 2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Sự thống nhất và đối lập của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh không tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Lúc mâu thuẫn mới xuất hiện, nó thể hiện sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, quá trình tác động, chuyển hóa giữa các sự vật được tiếp diễn, làm cho hiện tượng luôn vận động và phát triển. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá giữa chúng, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hợn cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển. 4. Ý nghĩa phương pháp luận. Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. Ngoài ra, cần phải phân biệt đúng vai trò, vị trí của mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định cùng những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách hợp lí nhất. Phần II: Ứng dụng phép mâu thuẫn biện chứng trong việc phân tích nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 1. Tính tất yếu của quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 1.1 Khái niệm kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Về ưu điểm:người tiêu dùng được tự do thỏa mãn nhu cầu,thúc đẩy sự năng động sáng tạo trong sản xuất,tránh gây tổn thất lãng phí,thúc đầy nền kinh tế phát triển Về nhược điểm:phân bổ nguồn lực không hiệu quả,người sản xuất sẽ bất chấp gây ô nhiễm môi trường,an toàn để sản xuất sao cho tối đa hóa lợi nhuận, phân hóa giàu nghèo,bất công xã hội,khủng hoảng, thất nghiệp,lạm phát Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít.Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai nước. 1.2 Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là tên gọi một hệ thống kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990. Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chỉ có giải thích hạn chế và chung chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền XHCN hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.Hệ thống kinh tế thị trường định hướng XHCN có các đặc trưng sau: Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công. Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. 1.3 Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển. Nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phượng thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện nhận thực. Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đởi sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Do vây, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. 2. Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt Nam. 2.1 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng XHCN. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ một nước phong kiến đi lên bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải có những biện pháp phù hợp để phát triển nền kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ vững được định hướng XHCN. Trước đây để xây dựng nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN nước ta đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy đã làm kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nước ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.. Hậu quả là xảy ra hiện tượng quan liêu bao cấp. Thêm vào đó bộ máy quản lý cồng kềnh làm triệt đi tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.Vì vậy, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Như vậy chấp nhận nền kinh tế thị trường là chúng ta chấp nhận sự mâu thuẫn của nó với tính định hướng XHCN vì nền kinh tế thị trường gồm có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và do đó cũng có nhiều hình thức phân phối. Sự phức tạp và đa dạng của nền kinh tế thị trường làm cho định hướng XHCN ngày càng khó khăn và đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có bản chất kinh tế xã hội riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta phát triển theo những phương hướng khác nhau. Vì vậy, thành phần kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vỹ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. 2.2 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề phân hóa giàu nghèo. Nền kinh tế thị trường phát triển, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội nhưng không vì vậy mà đời sống của nhân dân được nâng cao và ổn định. Trái lại cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì cũng diễn ra sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng.Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lan rộng sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác Điều đó đưa đến hệ quả không mong muốn tác động đến tư tưởng, tâm lý, niềm tin về công bằng xã hội. Vì thế, cần tăng cường vai trò của nhà nước đối với phân phối thu nhập nhằm từng bước thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 2.3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề bảo vệ môi trường. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt là các ngành công nghiệp đã làm cho môi trường ngày càng ô nhiễmĐây là vấn đề quan trọng được đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn thế giới. Nó đòi hỏi cần phải được giải quyết triệt để nếu không môi trường bị phá huỷ là con người sẽ tự huỷ hoại môi trường sống của chính bản thân mình.Sự phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể bền vững khi môi trường sống và thiên nhiên được bảo vệ tốt, duy trì được mối cân bằng sinh thái, tránh bị ô nhiễm và biết cách khai thác, sử dụng, phục hồi một cách hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. 3. Giải pháp để giải quyết mâu thuẫn và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 3.1 Những phương án để giải quyết mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 3.1.1 Giải quyết mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng XHCN. Cần xác lập vai trò chủ đạo của nhà nước trong việc quản lí nền kinh tế chung. Bên cạnh đó, cần giáo dục tư tưởng lý luận cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức và những chủ thể sản xuất kinh doanh để họ nhận thức đúng đắn đường lối phát triển đất nước theo định hướng XHCN của nước ta. Từ đó họ có những phương thức sản xuất kinh doanh phù hợp với con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn. 3.1.2 Giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề phân hóa giàu nghèo. Cần duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện để nhân dân có việc làm, nâng cao vấn đề phúc lợi và an sinh xã hội để dần cải thiện cuộc sống nhân dân. Chú ý một số biện pháp: Tạo môi trường kinh tế – xã hội, cơ chế, chính sách thuận lợi cho các thành phần kinh tế, mọi công dân được quyền tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Phát triển nông nghiệp và nông thôn Tăng cường hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất, vươn lên làm giàu Tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội Thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. 3.1.3 Giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề bảo vệ môi trường. Sản xuất theo chu kỳ khép kín; khử và lọc nước và khí thải; nghiên cứu những nhiên liệu mới không hoặc ít gây ô nhiễm.Phải có quy hoạch tổng thể khoa học, vừa khai thác rừng, vừa trồng và bảo vệ rừng, xây dựng các khu rừng cấm quốc giaCần có chính sách khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý.Bảo vệ môi trường bằng pháp luật là biện pháp hết sức quan trọng. 3.2 Những phương án phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp. Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Phần III: Kết luận Phép biện chứng về mâu thuẫn đóng một vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn. Điều quan trọng là cần coi trọng mâu thuẫn, tìm hiều, phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm rõ được bản chất, nguồn gốc và đặc điểm của mâu thuẫn; đồng thời phân biệt được các hình thức mâu thuẫn, xác định cụ thể và chính xác phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Hơn nữa, ta cần nắm vững nguyên lí của giải quyết mâu thuẫn, đó là: sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra theo qui luật phá bỏ cái cũ để hình thành cái mới tiến bộ hơn. Điều đó có nghĩa trong xã hội, những hành vi đấu tranh chỉ được coi là chân chính nếu nó phục vụ cho sự phát triển chung của cộng đồng. Đất nước ta đã trải qua quá trình gian khổ để đấu tranh, giành lại độc lập, thống nhất nước nhà. Giờ đây, chúng ta cũng không ngừng nỗ lực vượt qua bao trở ngại để đưa nước ta đi theo con đường XHCN, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm phát triển một xã hội Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Từ một nền kinh tế lạc hậu trên chính sách bao cấp quan liêu, , dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước, chúng ta đã xây dựng Chính Sách Đổi Mới và bắt đầu thực hiện từ năm 1986. Chính Sách Đổi Mới là một bước đi đúng đăn, đã có nhiều chuyển biến tích cực trong nền kinh tế của nước ta. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều thử thách trong tương lai, trong đó có sự tồn tại của những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Bởi vậy, vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tìm phương pháp hợp lí để giải quyết các mâu thuẫn
Luận văn liên quan