Tiểu luận Quan điểm về con người của L. Phoiobac. Những giá trị và hạn chế

Bất cứ khoa học nào cũng vì con người, hướng tới cuộc sống con người. Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về nhữ ng quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy. Con người là đối tượng nghiên cứu của triết học trong tính phổ quát. Có nhiều trường phái triết học ra đời cũng đồng thời có nhiều quan niệm khác nhau về con người. Quan niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, như ng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán của nhà triết học cổ điển Đức I. Kant(1724-1804) thì các quan niệm đó mới được hệ thống hoá và trình bày dưới dạng một học thuyết triết học với tên gọi là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những giá trị tư tưởng trong nhân bản học của Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của k hoa học tự nhiên đương thời, L. Phoiobac(1804-1872) có tham vọng vư ơng tới việc thiết lập một nền triết học mới triết học tương lai lấy con người và đời sống tâm s inh lý của nó làm đối tượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới L.Phoiobac viết, biến con người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học, kể cả s inh lý học thành khoa học phổ quát. Việc tìm hiểu quan niệm về con người trong triết học L. Phoiobac có ý nghĩa giúp ta có cái nhìn toàn diện về lịch sử quan niệm về con người trong triết học nói chung và những ưu điểm, đóng góp lẫn những hạn chế của ông nói riêng.

pdf27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2514 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm về con người của L. Phoiobac. Những giá trị và hạn chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 Tiểu luận Quan điểm về con người của L. Phoiobac. Những giá trị và hạn chế Trang i Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 LỜI NÓI ĐẦU Bất cứ khoa học nào cũng vì con người, hướng tới cuộc sống con người. Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy. Con người là đối tượng nghiên cứu của triết học trong tính phổ quát. Có nhiều trường phái triết học ra đời cũng đồng thời có nhiều quan niệm khác nhau về con người. Quan niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán của nhà triết học cổ điển Đức I. Kant(1724-1804) thì các quan niệm đó mới được hệ thống hoá và trình bày dưới dạng một học thuyết triết học với tên gọi là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những giá trị tư tưởng trong nhân bản học của Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên đương thời, L. Phoiobac(1804-1872) có tham vọng vương tới việc thiết lập một nền triết học mới triết học tương lai lấy con người và đời sống tâm sinh lý của nó làm đối tượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới L.Phoiobac viết, biến con người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học, kể cả sinh lý học thành khoa học phổ quát. Việc tìm hiểu quan niệm về con người trong triết học L. Phoiobac có ý nghĩa giúp ta có cái nhìn toàn diện về lịch sử quan niệm về con người trong triết học nói chung và những ưu điểm, đóng góp lẫn những hạn chế của ông nói riêng. Trang ii Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................i CHƯƠNG 1: HOÀN C ẢNH LỊCH SỬ ................................................................1 VÀ CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP CỦA L. PHO IOBAC .........................................1 1.1 Hoàn cảnh lịch sử .............................................................................................1 1.1.1 Đặc điểm kinh tế– xã hội .........................................................................1 1.1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức .......................................................1 1.2 Cuộc đời và sự nghiệp Phoiobac ....................................................................3 CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC L. PHOIOBAC ................................................................................................................6 2.1 Nội dung triết học Phoiobac: ..........................................................................6 2.2 Quan niệm về con người trong triết học Phoiobac:......................................6 2.2.1 Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên .....................................7 2.2.2 Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.........................................................8 2.2.3 Mối quan hệ giữa con người với con người ........................................10 2.2.4 Mối quan hệ giữa người và thần ...........................................................11 2.3 Ảnh hưởng của Chủ ngh ĩa duy vật Phoiobac đ ến triết học Mác ..............15 2.3.1. Về tôn giáo: ............................................................................................16 2.3.2. Về con người ..........................................................................................16 2.3.3.Về tự nhiên: .............................................................................................18 KẾT LUẬN ...............................................................................................................20 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................23 Trang ii Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. Trang iii Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP CỦA L. PHOIOBAC 1.1 Hoàn cảnh lịch sử 1.1.1 Đặc điểm kinh tế– xã hội Nước Đức giữa thế kỷ 18 – nữa đầu thế kỷ 19 lạc hậu, nền kinh tế nông nghiệp phân tán nghèo nàn, lạc hậu, về chính trị chế độ quân chủ Phổ rất khắc nghiệt, trong tình hình như vậy thì giai cấp tư sản Đức yếu ớt, không đủ sức làm cách mạng tư sản như một s ố nước kh ác ở Ch âu Âu lúc bấy giờ. Vì yếu không đủ sức làm cách mạng cho nên đội ngũ trí thức Đức buộc phải làm cách mạng tư tưởng, và điều đó được thể hiện trong triết học cổ điển Đức. Trong khoảng thời gian này, khoa học tự nhiên ở phương tây và các nước phát triển, đạt được một số thành tựu lớn: phát hiện oxy – b ản chất của sự cháy, tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, học thuy ết về dưỡng khí và dưỡng khí và đã đưa ra các giả thuy ết khoa học về sự ra đời của vũ trụ. Với bối cảnh chính trị xã hội và sự phát triển của khoa học ở phương Tây và nước Đức như vậy đã chứng tỏ sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra vào cuối thế kỷ X VIII, đầu thế kỷ XIX. Do đó, nó đòi hỏi cần phải có một cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình của lịch sử nhân loại, cũng như cần có một quan niệm m ới về khả năng và vai trò của con người, và triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng những yêu cầu này. 1.1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức Triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của phương Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Các triết gia ra sức xây dựng các hệ thống triết học vạn năng, bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con người đề làm cơ sở cho những hoạt động đó. Đối với Hê-ghen, triết học thật sự phải là logic học; còn đối với Phoiobac, đó là nhân bản học. Tuy nhiên, do cố khắc phục những hạn chế siêu hình và máy móc trong nền triết học duy vật thế kỷ XVII-XVIII mà triết học cổ điển Đức lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, thần bí. Họ cho rằng, tính biện chứng sống động chỉ là bản tính của cái tinh thần, còn bản thân giới tự nhiên thì phi biện chứng. Dù vậy, họ vẫn biết tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý báu trong di sản triết học Trang 1 Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 truyền thống của nhân loại, phát triển thêm và xây dựng được phép biện chứng như một học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong thế giới. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của con người với tính cách là chủ thể của mọi hoạt động cải tạo thế giới – khách thể; và khảo sát khách thể gắn liền với hoạt động thực tiễn của chủ thể– con người. Song, do quan điểm duy tâm chi phối mà nhiều triết gia của nền triết học này hiểu thực tiễn chỉ là hoạt động sáng tạo của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý thức, biến ý thức thành một lực lượng siêu nhiên có năng lực sáng tạo kỳ vĩ; vì vậy, triết học của họ mang tính duy tâm – thần bí. Triết học cổ điển Đức là cơ sở thế giới quan, là nền tảng ý thức của giai cấp tư sản Đức cuối thể kỷ XVII đầu thế kỷ XIX vốn yếu về kinh tế, nhược về chính trị, nhưng có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, sống trong một xã hội mà tàn tích phong kiến còn quá nặng nề. Triết học cổ điển Đức ra đời và đáp ứng được nhu cầu xã hội, nó có một số điểm cần quan tâm: - Do đặc điểm tình hình xã hội lúc bấy g iờ, triết học Đức có nội dung rất cách mạng nhưng hình thức hiện thì rối rắm và mang tính bảo thủ ( điển hình trong triết h ọc Hê-ghen). - Đã xây dựng ph ép biện chứng như là một học thuyết hoàn chỉnh trình bày về mối liên hệ phổ b iến và sự phát triển (sau này Triết học Mác ra đời là kế thừa phép biện chứng này) nhưng tiếc thay biện chứng ở đây là phép biện chứng duy tâm. - Đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Con người đối với họ là một thực thể hoạt động, là chủ thể, nhưng đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của chính họ. Tư duy và ý thức con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế gi ới. Tuy n hiên họ đã quá thần thánh về trí tuệ, sức mạnh của con người tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên. Trang 2 Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 1.2 Cuộc đời và sự nghiệp L. Phoiobac L. Phoiobac (1804-1872)– đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức– nhà duy vật và nhà khai sáng. Triết học Phoiobac là sản phẩm tất y ếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30– đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm t ình thế cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức, thời kỳ gia tăng các cuộc đấu tranh tư tưởng giữa giai cấp tư sản và phản động. Lẽ cố nhiên nước Đức vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế và chính trị, còn giai cấp tư sản Đức thì chưa được thống nhất trong phạm vi quốc gia. Bên cạnh đó giai cấp tư sản bây giờ đứng trước hai lực lượng mà họ cho là đáng ngại: lực lượng của quá kh ứ và lực lượng của tương lai. Trong trường hợp đó, phần đông những người trung lưu chọn giải pháp dung hòa với chế độ dân chủ. Nhưng một bộ phận khác, tiến bộ hơn thấy rõ cuộc khủng hoảng sâu sắc bao trùm toàn bộ hệ thống xã hội phong kiến– nông nô và mong muốn đưa nước Đức ra khỏi tình trạng hiện có. Vào những năm 40– 50 của thế kỷ XIX, khắp nơi trên nước Đức đã dấy lên làn sóng khởi nghĩa của nông dân.Trong hàng ngũ những người tham gia đấu tranh có mặt những đại biểu ưu tú nhất của tầng lớp thứ ba và tri thức quí tộc. Rõ ràng sự gia tăng mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản đang phát triến và quan hệ phong kiến lỗi thời kéo theo sự ra đời các tổ chức xã hội đối lập với chính thể phong kiến, chế độ chuyên chế. Phong trào khai sáng Pháp và chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII cũng ảnh hưởng to lớn đến tâm trạng của người Đức. Sinh hoạt kinh t ế và chính trị, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Voltaire, M ontesquieu, Rousseau .v.v… ngày càng trở nên sôi động. Sự phát triển tư bản ở Đức đòi hỏi thủ tiêu. Song các nhà tư tưởng tư sản Đức tránh né sự va chạm trực tiếp với chế độ hiện hành. Họ chống đối chế độ chuyên chế dưới dạng phê phán về mặt triết học Cơ đốc giáo chính thống. Họ ngầm hiểu rằng phê phán tôn giáo tức là phê phán lực lượng phản động chính trị, bởi lẽ tôn giáo, đặc biệt Cơ đốc giáo, là hệ tư tưởng thống trị của nhà nước quân chủ Phổ. Trong số của những đại biểu kiệt xuất của khuynh hướng dân chủ tư sản nổi lên L.Phoiobac. Trang 3 Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 L.Phoiobac sinh trưởng trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Phoiobac vào học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuy ển đến Berlin, nơi Hê-ghen đang giảng triết học. Tại đây ông trở thành học trò của Hê-ghen và gia nhập phái H ê-ghen trẻ. "Nhờ Hê-ghen,– Phoiobac công nhận,– tôi đã ý thức được chính mình, ý thức được thế giới. Hê-ghen trở thành người cha thứ hai của tôi…”. Năm 1828 Phoiobac gởi cho Hê-ghen bản luận án của mình mang tên “Về lý tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng ý nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Đôi khi Phoiobac bày tỏ hoài nghi về tinh thần tuyệt đối chế ngự sự vận động tự nhiên, nhưng ngay lập tức những lập luận sắc sảo của H ê-ghen đã chinh phục học trò. Năm 1829, Phoiobac lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Phoiobac trình bày logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng – chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái niệm trung tâm –tình yêu. Tình yêu là bản chất của loài người. Con người biết sống trước hết là con người biết yêu."Đứa trẻ chỉ thành người khi nó y êu. Bản chất tình yêu thể hiện ở một dạng tình yêu, đó là tình yêu của người đàn ông dành cho người đàn bà". Năm 1830, Phoiobac xuất bản tác phẩm đầu tiên "Quan điểm về cái chết và bất tử". Một lần nữa chủ đề tình yêu lại được nêu ra. Phoiobac nói về tình yêu thiên đường và tình yêu trần tục, tình yêu thần thánh và tình yêu con người. Ông khẳng định: con người yêu con người, cần phải yêu, yêu là hiến dâng. Đề cập đến sự bất tử, Phoiobac cho rằng chỉ cần những hành vi vĩ đại của lý tính con người mới bất tử, nhưng nhìn chung ông bác bỏ tư tưởng phổ biến về sự bất tử của linh hồn. Sách của Phoiobac bị tịch thu, còn vị phó giáo sư bị thì mất việc. Cũng từ năm ấy Phoiobac bắt đầu cuộc sống đơn độc, thậm chí ẩn dật ở vùng quê, công bố những tác phẩm đánh dấu cách nhìn khác đối với triết học Hê-ghen. Năm 1831, Hê-ghen mất, Phoiobac có dịp bày tỏ toàn bộ quan điểm của mình. Cũng như Strauss, Bauer, ông xem việc phê phán tôn giáo giải phóng con người khỏi sự nô dịch của ý thức tôn giáo là mục đích tối cao. Nhưng ông tuyên bố tôn giáo là hình thức sinh hoạt tinh thần cần có ở bất cứ xã hội nào. Vấn đề là ở chỗ tôn giáo đó không kìm hãm nhân cách, trái lại khơi dậy khả năng tiềm tàng nơi con người. Năm 1836 Phoiobac cưới vợ, trong suốt 25 năm Trang 4 Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 hầu như không rời khỏi ngôi nhà nhỏ của mình, mặc dù năm 1848 trúng cử đại biểu quốc hội vùng Frankfurt. Năm 1839 Phoiobac đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hê-ghen", Phoiobac giải quy ết vấn đề cơ bản của triết học theo hướng duy vật và xem xét giới tự nhiên, tồn tại, vật chất, như thực tại sinh ra lý tính tư duy. Vượt qua khỏi giới hạn triết học Hê- ghen và Schelling, Phoiobac viết:"Thực tại của tồn tại cảm tính đơn nhất là chân lý". Thuật ngữ “chân lý” trong lối diễn đạt này có nghĩa là “thực tiễn", “tính có trước”. Ở chỗ khác Phoiobac nói thêm: “Chân lý, thực tiễn, tính cảm giác đồng nhất với nhau. Chỉ bản chất cảm tính mới là bản chất chân lý thực tiễn”. Năm 1841, Phoiobac cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cải cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai" (1843), Phoiobac đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người thụ động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng đó. Thời kỳ cách mạng Phoiobac viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì họ không thích thú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó những biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị. Mãi mãi Phoiobac cũng chỉ là một người dân chủ xã hội, mặc dầu những năm cuối cuộc đời ông đọc say sưa bộ "Tư bản", trao đổi bằng thư từ với không ít nhà Mác- xít. Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris (1871) thất bại. Trang 5 Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4 CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC L. PHOIOBAC 2.1 Nội dung triết học Phoiobac: Nền triết học mới mà Phoiobac đề cập đến là triết học phản ánh chân lý của thời đại, nó đặt ra và lý giải những vấn đề xã hội đương thời mà chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: “Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý là nhân bản học”. Theo Phoiobac, triết học mới hay triết học tương lai sẽ khắc phục được sự khác biệt của mình đối với tôn giáo, sẽ không còn là thứ triết học nhận thức tư biện, mà trở thành nhân bản học- một học thuy ết toàn diện về con người, về m ối quan hệ của nó với thế giới. Trong triết học m ới, hình ảnh con người sẽ được trình bày trên cơ sở của các dữ liệu khoa học cũng như trên cơ sở của học thuyết về Chúa. Con người trong nhân bản học không chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới tự nhiên mà còn là một sinh thể tự nhiên toàn năng. Triết học mới có sức mạnh truy tìm lời giải đáp hiện thực để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Triết học cũ là hệ thống triết học gắn liền với thần học còn triết học mới kết hợp chặt chẽ với khoa học tự nhiên, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là giúp con người nhận diện chính mình như một bộ phận của giới tự nhiên, nhận ra chân giá trị của cuộc sống và nhằm nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc ngay trong thế giới trần gian. Và để thực hiện được sứ m ệnh lịch sử thiêng liêng đó thì “triết học cần thiết phải liên hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên, còn khoa học tự nhiên thì phải liên hệ chặt chẽ với triết học”. Vốn là người có tư tưởng cách tân, Phoiobac mơ tới việc thiết kế những đồ án cho việc cải cách triết học và ông đã thực hiện điều đó trong hai tác phẩm “Những luận điểm dự thảo cho cuộc cải cách triết học” (1842), và “Những luận đề cơ bản của triết học tương lai” (1843). Trong các tác phẩm đó, ông đã mở ra một hướng đi mới cho các nhà triết học sau này, đó là truy tìm bí mật của triết học ngay trong giới tự nhiên và con người: “Hãy
Luận văn liên quan