Tiểu luận Sinh lý sinh dưỡng và nhịp sinh học ở người

Đối với một cuộc sống năng động, hiện đại như hiện nay thì nhu cầu của con người không chỉ là có cái ăn cái mặc nữa, mà phải làm như thế nào để có thể ăn ngon nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe tốt và một cuộc sống lành mạnh để có thể vui chơi sống và học tập, trong vô số những thức ăn như hiện nay thì việc lựa chọn các loại thực phẩm phù hợp với bản thân là không hề đơn giản và loại thực phẩm nào chúng ta nên tránh và có chế độ ăn như thế nào quả là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Và để giúp cho chúng ta có thêm kiến thức về chế độ dinh dưỡng và một cuộc sống như thế nào để có thể phù hợp với nhịp sinh học của cơ thể, nhóm chúng em xin được giới thiệu đề tài tiểu luận “”. Với đề tài này, nhóm chúng em muốn gửi tới cô và mọi người về quá trình sinh trưởng phát triển, nhu cầu dinh dưỡng, ngoài ra cung cấp một số loại thực phẩm chức năng trong đời sống con người, giúp mọi người tìm hiểu và khái quát rõ về nhịp sinh học ở con người ra sao. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em mong rằng có thể góp một phần nào đó cho sự hiểu biết chung đối với vấn đề dinh dưỡng cũng như khắc phục những quan điểm sai lầm trong lối sống của chúng ta từ đó có thể đem lại cho chúng ta cuộc sống lành mạnh để có thể học tập, vui chơi giải trí. Trong quá trình làm tiểu luận chúng em đã sử dụng những tại liện trên internet cũng như một số sách, đặc biệt hơn chúng em cũng xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị Phương Nhung đang giảng dạy bộ môn Sinh học chức năng động vật đã nhiệt tình chỉ dẫn chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Trong quá trình làm không thể tránh những thiếu sót mong cô và các bạn thông cảm./.

pdf69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2793 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sinh lý sinh dưỡng và nhịp sinh học ở người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THỰC PHẨM MÔN HỌC: SINH HỌC CHỨC NĂNG ĐỘNG VẬT. TIỂU LUẬN GVHD: Th.s Trần Thị Phương Nhung. Lớp: DHSH7B – LHP: 210511602 Danh sách nhóm 4: 1. Nguyễn Thị Hoa 11266621 2. Lâm Thị Nga 11246021 3. Lê Thị Đỗ Quyên 11029171 4. Nguyễn Tiến Thịnh 11047541 5. Nguyễn Thị Lệ Thu 11069291 LỜI MỞ ĐẦU Đối với một cuộc sống năng động, hiện đại như hiện nay thì nhu cầu của con người không chỉ là có cái ăn cái mặc nữa, mà phải làm như thế nào để có thể ăn ngon nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe tốt và một cuộc sống lành mạnh để có thể vui chơi sống và học tập, trong vô số những thức ăn như hiện nay thì việc lựa chọn các loại thực phẩm phù hợp với bản thân là không hề đơn giản và loại thực phẩm nào chúng ta nên tránh và có chế độ ăn như thế nào quả là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Và để giúp cho chúng ta có thêm kiến thức về chế độ dinh dưỡng và một cuộc sống như thế nào để có thể phù hợp với nhịp sinh học của cơ thể, nhóm chúng em xin được giới thiệu đề tài tiểu luận “”. Với đề tài này, nhóm chúng em muốn gửi tới cô và mọi người về quá trình sinh trưởng phát triển, nhu cầu dinh dưỡng, ngoài ra cung cấp một số loại thực phẩm chức năng trong đời sống con người, giúp mọi người tìm hiểu và khái quát rõ về nhịp sinh học ở con người ra sao. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em mong rằng có thể góp một phần nào đó cho sự hiểu biết chung đối với vấn đề dinh dưỡng cũng như khắc phục những quan điểm sai lầm trong lối sống của chúng ta từ đó có thể đem lại cho chúng ta cuộc sống lành mạnh để có thể học tập, vui chơi giải trí. Trong quá trình làm tiểu luận chúng em đã sử dụng những tại liện trên internet cũng như một số sách, đặc biệt hơn chúng em cũng xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị Phương Nhung đang giảng dạy bộ môn Sinh học chức năng động vật đã nhiệt tình chỉ dẫn chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Trong quá trình làm không thể tránh những thiếu sót mong cô và các bạn thông cảm./. 1 MỤC LỤC I. Giới thiệu về con người. ............................................................................................................ 2 II. Chế độ dinh dưỡng của con người. ......................................................................................... 13 1. Nhu cầu nǎng lượng: ........................................................................................................... 25 2. Số lượng, thời gian ăn .......................................................................................................... 25 3. Cách chế biến thức ăn ......................................................................................................... 25 III. Thực phẩm và thực phẩm chức năng trong đời sống con người. .......................................... 40 1. Khái niệm............................................................................................................................. 41 2. Phân biệt thực phẩm chức năng (Functional Food) với thực phẩm (Food) và thuốc (Drug). 41 3. Một số loại thực phẩm chức năng. ...................................................................................... 42 4. Thực phẩm chức năng: dùng không đúng có thể gây hại................................................... 44 IV. Nhịp sinh học ở động vật và người. ........................................................................................ 45 1. Khái niệm............................................................................................................................. 45 2. Nhịp sinh học ở động vật ..................................................................................................... 46 3. Nhịp sinh học của con người (đồng hồ sinh học). ............................................................... 47 V. Nhịp sinh học với đời sống con người. .................................................................................... 49 1. Mối quan hệ nhịp sinh học và chế độ sinh hoạt của con người. ......................................... 49 2. Ứng dụng đồng hồ sinh học trong điều chỉnh hợp lí chế độ dinh dưỡng cho động vật và người. ........................................................................................................................................... 53 VI. Những nghiên cứu mới về nhịp sinh học động vật và người. ................................................ 60 1. Đối với động vật. .................................................................................................................. 60 2. Đối với con người. ................................................................................................................ 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 67 2 I. Giới thiệu về con người. Con người, theo phân loại học là Homo sapiens, tiếng La-tinh nghĩa là "người thông thái" hay "người thông minh", là một loài còn sống duy nhất của chi Homo, thuộc loài động vật có vú, Con người là một loài sinh vật có bộ não tiến hóa rất cao cho phép thực hiện các suy luận trừu tượng, ngôn ngữ và xem xét nội tâm. Điều trên kết hợp với một cơ thể đứng thẳng cho phép giải phóng hai chi trước khỏi việc di chuyển và được dùng vào việc cầm nắm, cho phép con người dùng nhiều công cụ hơn tất cả những loài khác. Cũng như những loài linh trưởng khác, con người là một sinh vật xã hội, sống bầy đàn. Hơn thế nữa, con người cũng rất thành thạo việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, để biểu lộ những ý kiến riêng của mình và trao đổi thông tin. Con người tạo ra những xã hội phức tạp trong đó có những nhóm hỗ trợ nhau và đối nghịch nhau ở từng mức độ, có thể từ những cá nhân trong gia đình cho đến những quốc gia rộng lớn. Giao tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Con người cũng rất chú ý đến cái đẹp và thẩm mỹ, cùng với nhu cầu muốn bày tỏ mình, đã tạo nên những sự đổi với về văn hóa như nghệ thuật, văn chương và âm nhạc. Con người cũng được chú ý ở bản năng muốn tìm hiểu mọi thứ và điều khiển tự nhiên xung quanh, tìm hiểu những lời giải thích hợp lí cho những hiện tượng thiên nhiên qua khoa học, tôn giáo, tâm lý và thần thoại. Bản năng tò mò đó đã giúp con người tạo ra những công cụ và học được những kĩ năng mới. Trong giới tự nhiên, con người là loài duy nhất có thể tạo ra lửa, nấu thức ăn, tự may quần áo, và sử dụng các công nghệ kỹ thuật trong đời sống.  Sinh lý học và di truyền học Hình dạng con người về căn bản rất khác nhau. Mặc dầu phần lớn được quy định bởi các gene, môi trường xung quanh vẫn có một ảnh hưởng rất lớn đến hình dáng như chế độ ăn uống và luyện tập. Một người Việt Nam có chiều cao trung bình của nữ là 3 1,53 m và nam là 1,64 m trong khi một người Bắc Mỹ lại có chiều cao ở nữ là 1,62 m và ở nam là 1,75 m. Con người cũng là một động vật hoàn toàn di chuyển bằng hai chân sau, vì vậy, hai chi trước (được gọi là tay) có thể tự do linh động và dùng vào những việc như cầm nắm một vật, được hỗ trợ bằng ngón tay cái. Tuy nhiên, cấu trúc bộ xương con người vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng cho việc giải phóng bằng hai tay, điều này khiến xương sống của con người cong lại thành dạng hình chữ S và tạo nên những khó khăn lúc về già. Mặc dù con người có vẻ như không có nhiều lông so với những loài linh trưởng khác nhưng con người lại có rất nhiều lông mọc ở phía trên đầu (còn gọi làtóc), dưới nách và xung quanh cơ quan sinh dục hơn cả loài tinh tinh. Điều khác biệt chính đó là lông của con người ngắn hơn và có ít màu sắc hơn, vì vậy khó thấy hơn. Một phụ nữ thuộc bộ tộc Inuit, ảnh năm 1907. Màu tóc của con người và màu da được quyết định bởi sự hiện diện của các sắc tố có tên là melanin. Da của con người có thể có màu nâu đậmcho đến màu hồng, và tóc của con người có thể có màu vàng, màu nâu, cho đến đỏ. Một số khoa học gia cho rằng sự thay đổi màu da sang một màu tối là một cách của con người nhằm chống lại các tia cực tím vì melanin là một chất chống tia cực tím hiệu quả. Màu da của con người phần lớn là do các điều kiện địa lý xác định, và có sự liên quan đến cường độ và thời gian 4 tiếp xúc với tia cực tím. Da con người sẽ có xu hướng đen đi (rám nắng) để phản ứng với tia cực tím. Một người bình thường cần ngủ ít nhất là trong khoảng 7 đến 8 tiếng đối với người lớn và 9 đến 10 tiếng đối với trẻ em, và những người già chỉ ngủ khoảng 6 đến 7 tiếng một ngày. Những ảnh hưởng không tốt sẽ xảy ra nếu không ngủ đủ giấc. Ví dụ, một người lớn nếu bị giảm thời gian ngủ xuống còn 4 tiếng một ngày sẽ cho thấy những bất thường liên quan đến mặt sinh lý và tâm thần, bao gồm mệt mỏi, cáu gắt, khó chịu. Trong xã hội hiện đại, có xu hướng người ta ngày càng ngủ ít hơn dẫn đến một "hội chứng mất ngủ". Con người là một động vật có cấu tạo tế bào đầy đủ. Mỗi tế bào có 23 cặp nhiễm sắc thể, trong đó có 22 cặp nhiễm sắc thể thường và 1 cặp nhiễm sắc thể giới tính. Mỗi người được nhận 23 nhiễm sắc thể từ cha và 23 nhiễm sắc thể từ mẹ, tạo thành 23 cặp tương đồng. Riêng nhiễm sắc thể giới tính ở nam là XY và ở nữ là XX, do đó, nhiễm sắc thể Y ở nam chỉ được nhận từ cha, còn nhiễm sắc thể X có ở cả 2 giới có thể được nhận từ cha lẫn mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy con người có trung bình 20.000- 25.000 gene và có 98,4% số gene giống với loài động vật gần con người nhất: tinh tinh. Giống như những loài có vú khác, con người có hệ thống xác định giới tính XY, vì vậy, phụ nữ sẽ có nhiễm sắc thể giới tính là XX và đàn ông là XY. Nhiễm sắc thể X lớn hơn và mang nhiều gene hơn nhiễm sắc thể Y, do đó, nhiều bệnh di truyền liên quan đến nhiễm sắc thể X như bệnh máu không đông, ảnh hưởng nhiều đến đàn ông hơn.  Vòng đời Một bào thai trong tử cung người mẹ. Hình phác thảo của Leonardo da Vinci. 5 Vòng đời sinh học của con người bắt đầu từ khi nhau thai hình thành. Qua quá trình thụ tinh (ở con người làthụ tinh trong), một con người mới hình thành. Trứng thường được thụ tinh trong cơ thể phụ nữ cùng với tinh trùng của đàn ông qua quá trình giao hợp, hay như một trong những tiến bộ khoa học gần đây là quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cũng thường được sử dụng. Trứng đã được thụ tinh, gọi là hợp tử, phân chia liên tục trong tử cung người phụ nữ và trở thành một bào thai. Sau một khoảng thời gian kéo dài khoảng 38 tuần, bào thai đó sẽ dần dần phát triển trở thành một con người thực thụ. Vào thời điểm được sinh ra, bào thai phát triển đầy đủ sẽ ra khỏi cơ thể người phụ nữ và bắt đầu tự hít thở, và được gọi là "trẻ sơ sinh". Vào thời điểm này, hầu hết những xã hội hiện đại đều công nhận đứa bé ấy là một người và được bảo vệ trước pháp luật, tuy nhiên một số khác thừa nhận quyền con người của đứa bé khi nó còn là một đứa bé trong tử cung người mẹ. So với những loài động vật khác, việc sinh nở của con người phức tạp hơn hẳn. Những cơn đau kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ hay hơn thế nữa không hiếm, và cũng có thể dẫn đến chấn thương hay cả cái chết đến cho đứa bé hay người mẹ. Mặc dù khả năng đó đã giảm đi rất nhiều trong thế kỉ 20 và 21 trong những nước phát triển vì sự phát triển những kĩ thuật hỗ trợ sinh sản mới. Sinh sản tự nhiên, tuy có độ nguy hiểm rất cao, nhưng cũng rất phổ biến trong những vùng chưa phát triển trên thế giới Con người sau khi được mang thai khoảng 9 tháng thì có cân nặng khoảng 3–4 kg và cao 50–60 cm. Sau đó, chúng tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo và đạt đến sự phát triển sinh dục nhất định. Trẻ em gái thường tiếp tục phát triển đến năm 18 tuổi, trong khi trẻ em trai lại tiếp tục phát triển đến năm 21 tuổi. Cuộc sống của một người có thể được chia thành những giai đoạn quan trọng sau: sơ sinh, thiếu nhi, dậy thì, thanh niên,trưởng thành và già. Tuy nhiên, độ dài của những giai đoạn trên luôn không rõ ràng, nhất là giai đoạn cuối. Có những ý kiến khác nhau về tuổi thọ trên trái đất. Ở những nước đã phát triển, người ta ngày càng già đi, với độ tuổi trung bình ở mức xấp xỉ 40 tuổi (cao nhất là ở Monaco với mức 45,1 tuổi), nhưng ở những nước thuộc thế giới thứ ba thì độ tuổi 6 trung bình lại là 15-20 tuổi (thấp nhất là ở Uganda với mức 14,8 năm). Tuổi thọ của con người trung bình được ước tính là 77,2 vào năm 2001 ở Hoa Kì.[10] Tuổi thọ trung bình ở Singapore là 84,29 năm ở nữ và 78,96 năm đối với nam, trong khi ở Botswana, do dịch bệnh AIDS đang hoành hành tại đây cho nên tuổi thọ chỉ ở mức 30,99 năm với nam và 30,53 năm đối với nữ. Cứ năm người châu Âu thì sẽ có một người sống thọ nhưng phải 20 người châu Phi thì mới có một người sống được hơn 60 tuổi. Số người có tuổi thọ trên 100 trên thế giới được Liên Hiệp Quốc ước tính là khoảng 210.000 vào năm 2002.[12]. Tuổi thọ lớn nhất ở con người là khoảng 120 năm (cụ Jeanne Calment đã sống được 122 năm 164 ngày). Trên toàn thế giới, cứ 81 người đàn ông có tuổi thọ trên 60 tuổi thì có 100 phụ nữ như thế. Và trong số những người thọ nhất thì tỉ lệ đó là 53 nam: 100 nữ. Một câu hỏi khác là khi nào con người bắt đầu nhận thức và nó sẽ trở nên như thế nào sau khi chết vẫn còn đang được tranh cãi. Nỗi lo sợ cái chết khiến hầu hết loài người cảm thấy bất an và lo sợ. Những lễ chôn cất thường được tổ chức rất trọng thể trong xã hội loài người thể hiện một lòng tin về sự sống sau cái chết hay sự bất tử.  Chủng tộc Con người thường tự phân loại họ thành những chủng tộc khác nhau, mặc dù những bằng chứng khoa học chứng minh về chủng tộc còn gây nhiều tranh cãi. Con người thường phân loại chủng tộc dựa vào tổ tiên hay đặc điểm sinh học, đặc biệt là màu da và những đặc điểm khác trên mặt; ngoài ra còn có các đặc điểm khác như ngôn ngữ, văn hóa và quốc gia mà họ đang sinh sống. Sự hình thành các chủng tộc có thể dẫn đến các cách hành xử khác nhau và những sự phân biệt khác nhau đối với người từ chủng tộc khác, dẫn đến thuyết phân biệt chủng tộc. Do đó, một số xã hội đặt nặng những định kiến của mình về những xã hội khác, trong khi một số khác lại không. 7  Sự tiến hóa của con người Hộp sọ được tái tạo lại của Người Peking, một đại diện xa xưa đã tuyệt chủng được xem là tổ tiên gần nhất của Homo sapiens: Homo erectus. Nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người cũng là nghiên cứu sự phát triển của chi Homo, nhưng đôi khi nó cũng có liên quan đến những sinh vật khác thuộc họ hominidae hay phân họ homininae. "Con người hiện đại được giới khoa học cho vào phân loài Homo sapiens sapiens, và là một mở rộng của loài Homo sapiens. Ngoài ra, trong loài Homo sapiens còn có một phân loài khác ngày nay đã tuyệt chủng mang tên Homo sapiens idaltu (nghĩa là "người thông minh già"). Loài mang quan hệ gần nhất đối với Homo sapiens là loài tinh tinh và loài tinh tinh lùn. So sánh các sơ đồ gene cho kết quả là "sau 6.5 triệu năm tiến hóa theo những con đường khác nhau, sự khác nhau giữa tinh tinh và con người gấp 10 lần sự khác nhau giữa hai người không có quan hệ gì với nhau nhưng vẫn nhỏ hơn 10 lần so với một con chuột bạch và một con chuột thường". Tuy nhiên trên thực tế, số gene con người giống tinh tinh đến 96%.[14] Người ta cho rằng con đường tiến hóa giữa con người đã đi theo một hướng khác với tinh tinh vào khoảng 5 triệu năm trong khi đối với gorilla là 8 triệu năm. Tuy nhiên, một hộp sọ của loài linh trưởng Sahelanthropus tchadensis được cho là khoảng 7 triệu năm tuổi, có thể nó của một tổ tiên xa hơn của chúng ta. Có hai lý thuyết khoa học về sự hình thành nguồn gốc con người hiện đại. Tất cả đều có liên quan đến quan hệ giữa con người và những loài linh trưởng khác. Thuyết một nguồn gốc cho rằng tất cả loài người hiện đại đều tiến hóa ở Châu Phi và 8 về sau, con người sinh sản nhanh lấn chiếm các loài linh trưởng khác trên tất cả mọi nơi trên thế giới. Thuyết nhiều nguồn gốc cho răng sự tiến hóa của loài người diễn ra riêng lẻ ở những bầy linh trưởng khác nhau. Những nhà di truyền học Lynn Jorde và Henry Harpending của trường đại học Utah đã cho rằng sự khác biệt ADN của hai người vẫn còn rất nhỏ so với ở loài khác, và trong suốt kỉ Pleistocene, số lượng con người bị giảm xuống rất nhiều, chỉ còn khoảng 10.000 cặp dẫn đến một số lượng rất nhỏ gene được di truyền. Một số nguyên nhân khác cho vấn đề này cũng đã được nêu ra, trong đó nổi bật nhất là thuyết thảm họa Toba. Sự tiến hóa của con người được đánh dầu bằng những dấu hiệu sinh học khác nhau, bao gồm sự phát triển của hộp sọ và cả bộ não lên đến mức 1.400 cm³ về thể tích, cao hơn gấp đôi tinh tinh hay gorilla. Những phần của bộ não con người cũng phát triển khác so với các loài linh trưởng khác cho phép xuất hiện thêm phần ngôn ngữ. Những nhà khoa học đang tranh luận về sự quan trọng của cấu trúc bộ não trên cả kích thước bộ não. Một trong những tiến hóa lớn là số răng nanh giảm, hình thành những di chuyển bằng hai chân, sự hình thành của dây thanh và hộp âm giúp phát triển tiếng nói. Ngành nhân loại học vẫn còn nhiều tranh cãi về những tiến hóa và vai trò của chúng thực sự trên một con người hiện đại.  Dân cư và dân số Sơ đồ về sự định cư của con người cổ dựa vào các bằng chứng vềmtADN. Sơ đồ vẽ với Bắc Cực ở trung tâm và các lục địa được trải ra theo hình phẳng. 9 Những nhà nhân chủng học hiện đại đang chấp nhận rộng rãi rằng loài Homo sapiens được hình thành ở những đồng cỏ Châu Phi khoảng 200.000 đến 250.000 năm về trước, là hậu duệ của loài Homo erectus, tiếp tục mở rộng lãnh địa cư trú và rồi thống trị lục địa Á-Âu và khu vực Thái Bình Dươngvào khoảng 40.000 năm về trước, cuối cùng là châu Mỹ vào 10.000 năm trước.[18]Chúng thay thế loài Homo neanderthalensis và loài Homo floresinesis vốn cũng là những hậu duệ khác của loài Homo erectus(chúng đã phát triển khắp lục địa Á-Âu vào hơn 2 triệu năm trước) do có sức sinh sản tốt hơn và tìm kiếm thức ăn tốt hơn. Những người thượng cổ thường kiếm sống bằng cách săn bắn-hái lượm, một lối sống rất phù hợp với những vùng đồng cỏ Châu Phi. Một số nhóm người về sau bắt đầu sống lối sống du mục và thường hay bắt thú vật để nuôi lấy thịt, về sau nữa, khi lối sống định cư phát triển thì nền nông nghiệp cũng ra đời. Những khu vực định cư chính của con người phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước, vào lối sống, vào tài nguyên thiên nhiên (như đất đai có phù hợp để gieo trồng hay không, có nhiều cỏ để chăn nuôi hay không, có nhiều thú để săn bắn hay không). Tuy nhiên, con người lại có khả năng thay đổi nơi cư trú của họ bằng các phương tiện vận chuyển khác nhau. Do đó, sự thay đổi môi trường là nhân tố chủ yếu khiến con người thay đổi nơi cư sinh sống. Khoa học kĩ thuật đã cho phép con người thống trị tất cả những lục địa và sinh tồn ở bất cứ thời tiết. Trong những thập niên gần đây, con người đã thám hiểm Nam Cực, dưới biển sâu và ngay cả không gian vũ trụ, mặc dù cư trú lâu dài ở những vùng như thế là chưa hoàn toàn có thể. Với dân số khoảng 6 tỉ người, con người là loài đông nhất trong số những loài động vật có vú. Phần lớn người (61%) sống ở Châu Á, phần còn lại chia đều cho châu Mỹ (14%), châu Phi (13%) và châu Âu (12%). Châu Đại Dương chiếm 0.5% (xem thêm danh sách các quốc gia theo dân số và danh sách các quốc gia theo mật độ dân số). Sự tồn tại của con người ở những vùng vốn có điều kiện khắc nghiệt đối với cuộc sống như Nam Cực hay ngoài không gian rất hạn chế về mặt thời gian và chỉ tồn tại ở những lĩnh vực thám hiểm, nghiên cứu khoa học, quân sự và công nghiệp. Nhất là sự 10 sống trên không gian vũ trụ, trong quá khứ và hiện tại, chưa có quá 13 người từng sống trên không gian cùng lúc. Giữa năm 1969 và 1972, chỉ có 2 người bước đi cùng lúc trên mặt trăng. Đến năm 2006, chưa có một thiên thể tự nhi
Luận văn liên quan