Tiểu luận So sánh phật giáo phật giáo ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản

Phật giáo đã thành hình và đã truyền bá rộng rãi trong dân chúng Trung Hoa dưới triều đại nhà Hán, nhưng Phật giáo trong thời kỳ này mang màu sắc pha tạp của Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian. Từ vua chúa đến thần dân đều tin và phụng thờ Phật Thích Ca và Lão Tử trên cùng một bàn thờ. Thời kỳ phát triển: - Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV T.L). sau khi nhà Ðông Hán mất ngôi, nước Tàu bị chia làm ba khối, tức là thời Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô. Mặc dù phân chia như thế, trong những nước ấy, từ vua chúa đến dân gian đều quy ngưỡng theo đạo Phật, và mỗi nước đều có những vị cao tăng từ Tây Vức sang truyền đạo. Đến đời Tây Tấn, Phật Giáo Thời kì ba Vương quốc (57 TCN – 668 CN): Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp hợp nhất những bộ lạc khác nhau thành những vương quốc thống nhất. Phật giáo Hàn Quốc đã Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp thích ứng với tín ngưỡng bản địa bằng cách thiết lập Phật giáo Hộ quốc. Thời kì Vương triều Silla hợp nhất (668-935) - Vương triều Silla có sự am hiểu và tôn sùng Phật giáo nên quần chúng nhân dân sẵn sàng theo họ. Do đó, Phật giáo đã tăng cường tình đoàn kết trong xã hội Silla. - Quan niệm duy tâm làm Thời kỳ hình thành ( 538-794): Phật giáo chính thức được truyền đến Nhật từ Triều Tiên (Korea) vào năm 552 Tây lịch (có chỗ ghi nhận là năm 538). Lúc bấy giờ vua nước Bách Tế (Triều Tiên) đã gởi một phái đoàn truyền giáo đến Nhật. Phái đoàn này đã được nhà vua Nhật Bản tiếp đón một cách nồng hậu.

pdf9 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận So sánh phật giáo phật giáo ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận SO SÁNH PHẬT GIÁO PHẬT GIÁO Ở TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN 2.1. Điểm giống nhau:Khánh nghĩ bỏ qua phần này!!!! Chưa đưa ra điểm giống nhau nào nổi bật hết 2.2. Điểm khác nhau: 2.2.3. Quá trình phát triển (những giai đoạn/thời kì phát triển, đặc điểm nổi bật nhất của từng giai đoạn)(Phần này chưa xong nha, còn một phần quá trình phát triển của Nhật nữa) TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Thời kỳ hình thành: Phật giáo đã thành hình và đã truyền bá rộng rãi trong dân chúng Trung Hoa dưới triều đại nhà Hán, nhưng Phật giáo trong thời kỳ này mang màu sắc pha tạp của Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian. Từ vua chúa đến thần dân đều tin và phụng thờ Phật Thích Ca và Lão Tử trên cùng một bàn thờ. Thời kỳ phát triển: - Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV T.L). sau khi nhà Ðông Hán mất ngôi, nước Tàu bị chia làm ba khối, tức là thời Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô. Mặc dù phân chia như thế, trong những nước ấy, từ vua chúa đến dân gian đều quy ngưỡng theo đạo Phật, và mỗi nước đều có những vị cao tăng từ Tây Vức sang truyền đạo. Đến đời Tây Tấn, Phật Giáo Thời kì ba Vương quốc (57 TCN – 668 CN): Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp hợp nhất những bộ lạc khác nhau thành những vương quốc thống nhất. Phật giáo Hàn Quốc đã Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp thích ứng với tín ngưỡng bản địa bằng cách thiết lập Phật giáo Hộ quốc. Thời kì Vương triều Silla hợp nhất (668-935) - Vương triều Silla có sự am hiểu và tôn sùng Phật giáo nên quần chúng nhân dân sẵn sàng theo họ. Do đó, Phật giáo đã tăng cường tình đoàn kết trong xã hội Silla. - Quan niệm duy tâm làm Thời kỳ hình thành ( 538-794): Phật giáo chính thức được truyền đến Nhật từ Triều Tiên (Korea) vào năm 552 Tây lịch (có chỗ ghi nhận là năm 538). Lúc bấy giờ vua nước Bách Tế (Triều Tiên) đã gởi một phái đoàn truyền giáo đến Nhật. Phái đoàn này đã được nhà vua Nhật Bản tiếp đón một cách nồng hậu. Thời kỳ phát triển (Heian/BìnhAn/794-1184): -Triều đại Nara (710 - 794) qua sự ủng hộ Phật Pháp của Hoàng đế Thánh Võ (Shomu 701 - 756), vị vua thứ 45 của Nhật Bản) Phật Giáo đã trở thành quốc giáo của đất nước Phù Tang. Năm 741, vua Thánh Võ đã ban hành một quốc lệnh rằng mỗi làng và mỗi tỉnh phải xây dựng một ngôi chùa và dân chúng phải thành tâm thọ trì Phật Pháp. Trung hoa mới thấy được cái vẽ rực rỡ của thời kỳ thịnh phát thứ nhất. Chính trong giai đoạn này, Trung hoa bắt đầu có những tôn phái mới là Tam luận tôn và thành thật tôn. - Thời kỳ vàng son của Phật giáoTrung Hoa tập trung vào triều đại nhà Tùy (Sui, 581-618). Trong thời kỳ này nhiều vị cao tăng đã gây thêm uy thế cho đạo Phật cả trong dân gian lẫn cả triều đình, như Ngài Hệ Lâm được tham dự triều chín. - Dưới đời nhà đường(thế kỷ thứ VII- IX ), vào khoảng đầu thế kỷ thứ bảy, dưới đời vua Ðường Thái Tôn(ông vua thứ hai đời đường),sau một thời gian bị phân tán vì giặc giã, đạo phập ở Trung hoa bắt đầu thịnh phát lại. Vị cao tăng đã mở đầu cho giai đoạn hưng thịnh nầy là Ngài Huyền-Trang, thường được gọi là Ðường Tam- Tạng pháp sư. Ngài Huyền- Trang tự phát đại nguyện sang Ấn Ðộ, tìm học đạo với những bậc minh-sư, và đi chu du khắp Ấn Ðộ. Sau 15 năm, Ngài trở về Trung hoa, đem rất nhiều kinh tạng bằng Phạm-Văn và tổ chức cuộc phiên dịch sang Hán- Văn có trên 1.500 quyển. thỏa mãn sự khao khát chung về một vùng đất hạnh phúc, không có khổ đau và khuyến khích người dân đồng nhất quốc vương của họ hay những vị anh hùng dân tộc với vị thần Phật giáo. Với sự giúp đỡ của Phật giáo, Vương triều Silla đã thành công trong việc chuyển đổi từ chế độ thị tộc sang nhà nước quân chủtập quyền với tính thống nhất quốc gia mạnh mẽ. - Vương triều Silla đặc biệt coi trọng và nghiên cứu sâu những bộ kinh Phật Đại thừa, như: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp. - Phật học viện có ảnh hưởng nhất trong Phật giáo Hàn Quốc được ra đời với công lao của nhà tư tưởng Phật giáo bậc thầy Uisang. - Cuối thời kì Silla hợp nhất, Phật giáo Seon (Thiền tông) được du nhập vào Hàn Quốc. Thời kì Goryeo (918- 1392) - Phật giáo dưới triều đại Goryeo cũng giữ vai trò là nguồn cảm hứng chủ đạo cho sáng tác nghệ thuật và nghiên cứu chuyên môn học thuật sâu. - Một trong những thành tựu to lớn nhất là nghệ thuật chạm khắc Tripitaka Koreana (Tam Tạng kinh Để làm gương cho mọi người, chính vua Thánh Võ đã đích thân xây chùa Đông Đại (Todai) tại kinh đô vào cuối năm 741.Sáu tông phái Phật giáo được truyền đến Nhật từ Trung Hoa và phong trào nghiên cứu và tu Phật tại Nhật đã bắt đầu: Luật Tông (Ritsu); Câu Xá Tông (Kusha); Thành Thật Tông (Jojitsu); Tam Luận Tông (Sanron); Pháp Tướng Tông (Hosso); Hoa Nghiêm Tông(Kegon). -Triều đại Heian (794 - 1185)được xem là thời hoàng kim củaPhật giáo Nhật; - Thời kỳ Kiếm Thương (Kamakura1185-1333): Đây là thời kỳ khủng hoảng, vì cả nước bị đe dọa trầm trọng bởi tàn phá khốc liệt từ sự phân hóa nội bộ và bạo lực dưới những tổ chức quân sự được thành lập năm 1185 của bộ tộc Minamoto, ngoại ô Kyoto, đã làm cho việc tu tập và nghiên cứu Phật Đà bị khựng lại một lúc lâu. Tuy nhiên, cuối cùng mọi việc cũng đâu vào đấy và Phật giáo vẫn tiếp tục công việc của mình.Nhật Liên Tông (Nichiren) và Tịnh Độ Tông (Jodo) cũng lần lượt xuất hiện và được truyền bá rộng rãi trên toàn nước Nhật. Thời kỳ này là thời kỳ hưng thịng lừng lẫy nhất của Phật Giáo Trung Hoa. - Từ khi nhà Ðường mất thiên hạ, đến nhà Minh, trải qua mấy trăm năm trước Trung Hoa tuần tự trải qua các đời: Ngũ Ðại (hậu Lương, hậu Ðường, hậu Tấn, hậu Hán, hậu Chu). Nhà Tống, rồi đến nhà Nguyên. Nhưng phải đợi đến đời vua Thái-Tổ nhà Minh (ChuNguyên Chương) đạo Phật mới lấy lại được cái vẽ huy hoàng của những thời hưng thịnh trước. Minh Thái-Tổ, nguyên lúc nhỏ là một vị Sa-Di, nên khi lên ngôi, Ngài hết sức ủng hộ Phật Giáo. - Phải đợi đến cuộc cách- mạng Tam-dân chủ-nghĩa (1912), đạo Phật mới trổi dậy bằng hình thức nghiên cứu Phật học và sự thành lập các hội Phật Giáo khắp trong nước. Thời kỳ suy vi và chấn hưng: Một số triều đại vui chúa hạ lệnh cấm Phật Giáo truyền bá, từ đó tạo thành trên lịch sử Phật giáo 2 chữ “Pháp nạn”. Nỗi bậc nhất là 4 lần pháp nạn phát sinh vào thời kỳ Bắc Ngụy Thái Võ Ðế, Bắc Châu Võ Ðế, Hàn bản). Đây là Bộ Kinh Phật được thực hiện vào đầu thế kỉ 13 trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh với người Mông Cổ. Bộ Kinh này bao gồm hơn 80.000 mộc bản. Đây là một công trình quốc gia được tạo nên không chỉ bởi công sức của chính quyền mà còn toàn thể dân chúng, là sự kết tinh của một nền văn hóa dân tộc bắt nguồn từ đức tin Phật giáo. - Tới cuối triều đại Goryeo Phật giáo đã phải chịu đựng những tổn thất nặng nề, do: sự chiếm hữu đất xây dựng chùa thờ Phật gia tăng hàng năm, việc miễn thuế và các nghi lễ quốc gia được tổ chức trên diện rộng đã trở thành gánh nặng lớn đối với ngân sách nhà nước. Hơn nữa, những vụ việc các nhà sư tham nhũng, cùng với sự dính líu của họ tới những cuộc tranh giành quyền lực chính trị, tiền tệ hay những vụ bê bối khác đã diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng Thời kì Joseon (1392- 1910) -500 năm triều đại Joseon là kỉ nguyên tối tăm đối với Phật giáo. Vì Tân Khổng giáo nổi bật lên như một thế lực mới, đàn áp Phật giáo một cách có hệ thống. Ðường Võ Tông và Ngũ Ðại Hậu Châu Thế Tông. Sau cuộc đàn áp dã man dưới triều đại vua Võ Tôn vào năm 845. Cả Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông đều bị tàn lụi vì sự đơn độc của hai tông phái này. Thiền và Tịnh Độ tông với nhiều tín đồ, được sống sót, phục hồi và tìm lại chỗ đứng trong xã hội Khổng Mạnh. Triều đại nhà Nguyên (1215-1368):Mật giáo của Phật giáo Tây Tạng được giới thiệu đến miền Bắc Trung Hoa nơi được sự đở đầu của hoàng gia sau khi Mông cổ xâm lăng TH. Phật giáotiếp tục phát triển, nhất là Mật tông của Tây Tạng được hoàng gia bảo trợ nên có nhiều ưu thế hơn. Các hoàng đế Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long là những ông vua hết lòng hộ trì Phật pháp và bảo trợ nhiều công trình Phật sự để đời như cho khắc in ba Đại Tạng Kinh Trung Hoa. Tuy nhiên cuộc nổi loạn vào các năm 1851-64 ở miền Nam Trung Hoa do vua Manchu của nhà Thanh cầm đầu, đã tạo ra một cuộc khủng bố khốc liệt đối với Phật Giáo, kết quả nhiều tự viện bị hủy diệt và tịch thu. Sau đó, Phật giáo Trung Hoaphải cầu viện Phật giáo -Sự quản lí nhà nước đối với Phật giáo ngày càng trở nên căng thẳng hơn, và lên đến đỉnh điểm khi có lời tuyên bố rằng các nhà sư là thành phần bị xã hội ruồng bỏ nên không được phép bước vào khu vực thủ đô. Nhà nước đưa ra lệnh cấm xây dựng các đền thờ gần thị trấn và nhiều đền thờ đã bị phá hủy. Những tu viện đã tồn tại phải ẩn sâu trong núi. Do đó, Phật giáo đã mất đi địa vị của mình trong nền văn hóa xã hội Hàn Quốc. Giới Phật giáo gần như rất thất vọng và mang tư tưởng chủ bại. Thời kỳ cận đại -Nhật Bản thôn tính Hàn Quốc vào năm 1910 và thực hiện có hệ thống chính sách Nhật hoá nền văn hoá Hàn Quốc -Các nhà sư Hàn Quốc được ủng hộ kết hôn, từ bỏ truyền thống sống độc thân, như các nhà sư Tân Tăng Nhật Bản đã và đang làm. -Sau khi Hàn Quốc được giải phóng khỏi ách thống trị Nhật Bản năm 1945, những nhà tu hành còn độc thân của Hàn Quốc muốn xua đuổi những nhà sư đã kết hôn ra khỏi cộng đồng Phật giáo. Sau vài thập kỉ đấu tranh gay gắt, hai phe phái Jogye và Nhật bản trợ giúp để phục hồi. Taego, tiêu biểu cho hai chủ trương nhà tu hành phải sống độc thân hay được kết hôn, thỏa thuận cùng chung sống như hai dòng Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc. 2.2.4. Đặc điểm: TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN - Phật giáo được truyền vào Trung Quốc hiển nhiên là Phật giáo Đại thừa, tiêu biểu cho chân lý của Đức Phật, còn Tiểu thừa chỉ được coi là phương tiện quyền xảo mà thôi. Trong mười ba phái dưới thời Tùy, Đưòng chỉ có Tỳ Đàm Tôn (sau là Cấu Xá Tôn) có thể nói là chân chính Đại thừa, còn tất cả các phái khác, trên bản chất thì thuộc Tiểu thừa, nhưng đều coi mình là Đại thừa, bởi thế mà địa vị của Đại thừa được thành lập. - Tại Trung Quốc, ngoài triều đình và các vị tăng già ẩn tuẫn trong các nơi thâm sơn u tịch ra, đối với nhân gian, Phật giáo chỉ phụ thuộc cho nên tinh thần Phật giáo có vẻ bạc nhược. - Phật giáo Hàn Quốc là hợp nhất các quan điểm khác nhau kết thành một hệ thống tư tưởng. - Phật giáo là nền tảng tư tưởng của giai cấp thống trị trong quá khứ; đóng vai trò là tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân. - Phật giáo Nhật Bản phát huy đặc chất của Đại thừa, coi nhẹ phần ẩn dật mà thiên trọng phần hoạt động, coi nhẹ phần học vấn mà coi trọng phần thực hành. Thái tử Thánh Đức chú thích kinh Pháp Hoa đến đoạn nói “nên ở những nơi núi rừng u tịch mà tu luyện” thì ông chua thêm là: “không nên, vì mục đích của đạo Phật là lấy sự hoạt động ngay giữa xã hội thực tiễn để phát huy cơ năng của mình” - Phật giáo lại từ chỗ sinh hoạt quốc gia tiến đến chỗ lấy sinh hoạt cá nhân làm trung tâm, lấy sự an tâm lập mệnh cá nhân làm cơ năng cao nhất, đến đây thì tinh thần Phật giáo đã thật sự thu hút toàn bộ sinh hoạt quốc gia, và trên thực tế, điểm này có thể nói đã trở nên thiết yếu nhất của Phật giáo Nhật Bản. 2.2.5. Tông phái chính: TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Thiền Tông: là một tông phái đặc biệt và thành tựu nhất của Phật giáo Trung Hoa. Tại Trung Hoa lúc đầu thiền bị ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Lão và Khổng. Thiền chỉ độc lập và nổi tiếng từ thế kỷ thứ bảy, tức phải đợi đến đời tổ Huệ Năng (Hiu Neng, 638-713, tổ thứ sáu) thì tông này mới được truyền bá rộng rãi và đã trở thành một tông phái chính cho tới ngày nay. Thiền (ch’an) là pháp môn huấn luyện tâm linh nhắm đến việc trực nghiệm thực tại của vạn hữu, còn gọi là tâm hay Phật tánh, hiện hữu ở mọi chúng sanh. Theo Thiền tông, thực tại này là vô ngã (sùnya), không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ, và cũng không thể nhận thức bằng tư tưởng. Do vì không Hiện tại Hàn Quốc có tất cả là 18 tông phái Phật giáo khác nhau xuất phát từ bốn tông phái chính là Thiền tông, Mật tông, Pháp Hoa tông và Hoa Nghiêm tông. Trong các tông phái, nổi bật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất là Thiền phái Tào Khê được thiền sư Tri Nột (Chinul, 1158-1210), thành lập với ước nguyện sẽ dung hòa không những, các chi phái của Thiền Tông Trung Hoa, mà còn dung hòa tất cả Tông phái khác đang hiện hữu tại Hàn Quốc. Ngài thiết lập ba phương pháp hành trì, phản ánh trực tiếp từ những kinh nghiệm thiền quán của Ngài: “Thực hành dung hòa giữa (Thiền) Định và (Trí) Tuệ”; “Thực hành dung hợp Tín và Trí”; “Hành trình Công án của Nam Thiền Đốn ngộ Trung Hoa”. Cho đến thế kỷ mười ba, tất cả những tông phái chính đều có mặt tại Nhật, bao gồm Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Nhật Liên Tông... Thiền được giới thiệu đến Nhật vào khoảng thế kỷ thứ 9 từ Trung Hoa qua hai Thiền phái Lâm tế và Tào Động, cả hai phái này đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng cửa Lục Tổ Huệ Năng ở thế kỷ thứ 8. Hiện nay ở Nhật có ba Thiền phái như sau : *Thiền Lâm Tế (Rinzai Sect):thường la hét, quát mắng, đánh đập hoặc áp dụng hình thức “công án” để khai thị đệ tử.Do công khai sáng của thiền sư người Nhật Vinh Tây (Eisai, 1141-1215).Ngài đã tìm đường đến Trung Hoa để học đạo trong hai lần, thể diễn đạt bằng ngôn ngữ và nhận biết bằng tư tưởng, thực tại này, tức chân tâm hay Phật tánh, chỉ có thể liễu hội (hay nắm bắt) bằng trực giác tức thời. Để đạt đến cấp độ này, hành giả phải gột rửa tất cả tư tưởng để tâm được an tịnh, bởi vì trong mọi ý niệm đều có ngã tính, tạo ra sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng. Đây là ngọn nguồn của mọi nghiệp báo khiến người ta rơi vào vòng sinh tử luân hồi. Khi liễu hội được chân tâm, người ta cảm nghiệm một trạng thái mà thiền gọi là ngộ, nghĩa là sự nhận biết như thật về nhất như của mọi hiện hữu. Ý chỉ của Tổ về pháp tu của Thiền tông được thâu gọn trong bốn câu kệ : "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật." (Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Theo triết học đại từ điển, nội dung của Thiền tông bao gồm 6 điểm: *Thuyết tâm tính tạo ra vạn vật: vạn vật từ tâm mà ra. *Thuyết Phật tính: mọi Những bộ kinh căn bản của thiền phái này là Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Hoa NghiêmẨ có khoảng 1632 ngôi chùa là chi nhánhở khắp trong và ngoài Triều Tiên, và có khoảng 18.000 tăng ni và khoảng 6.000.000 tín đồ qui y theo phái này. vào những năm 1168 và 1187.. Ngôi chùa Shofuku ở Hakatađược xem là thiền viện đầu tiên trên đất nước này. Ngài cũng được xem là người có công trong văn hóa uống trà của Nhật, Ngài đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng ở Nhật. * Thiền Tào Động (Soto/Tsao-tung): là một trong năm Thiền phái chính của Trung Hoa, chú trọng đến phương pháp nội quán, hay ngồi thiền dưới sự hướng dẫn của vị thiền sư, nghĩa là thiền sinh được vị thầy chỉ dạy trực tiếp và riêng rẽ. Đây là một Thiền phái kiểu mẫu phổ biến hơn những Thiền phái khác ở Nhật. Nếu Lâm tế thích ứng với giới thượng lưu trí thức, thì Tào Động lại gần gũi với tầng lớp bình dân. Thiền Tào Động được Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen, 1200- 1253) khai sáng. Hiện nay ngôi già lam chính của Thiền phái này là Chùa Tổng Trì (Soji-ji) ở Yokohama do thiền sư Hành Cơ (Gyogi, 666-749) tạo dựng năm 1321. * Thiền Hoàng Bá (Obaku sect): đây là Thiền phái thứ ba của người Nhật, có tầm ảnh hưởng ít hơn hai Thiền phái trên, do thiền sư người Trung Hoa Ẩn Nguyên người đều có Phật tính và đều có thể thành Phật. *Thuyết tự ngộ: Phật tính là tự tính, nhận thức tự tính sẽ thành Phật. *Thuyết đốn ngộ:không tu hành là người bình thường, nếu tu hành sẽ thành Phật. *Thuyết vô niệm:tu hành không để bên ngoài làm ảnh hưởng. *Thuyết Phật pháp không xa lìa thế gian:Phật pháp tại thế gian, khônng giác ngộ khi xa lìa thế gian, xa rời thế gian để tìm giác ngộ cũng tựa như đi tìm sừng thỏ. (Yin-Yuan, 1592-1673) khai sáng. Sau nhiều năm tu học tại quê nhà, ông đến Nhật Bản để hoằng Pháp vào năm 1654 và tiến hành thành lập Thiền phái này tại chùa Vạn Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato. Ông đã được vua Nhật ban cho danh hiệu là Quốc sư (Daiko-Fusho- Kokushi), ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Hiện tại có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của Thiền phái này. Nhìn chung cả ba Thiền phái trên đã phát triển mạnh ở Nhật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của người dân Nhật. Cả ba đều có nhiều trường đại học, nhà xuất bản kinh sách riêng, cơ quan từ thiện... Không những thế Thiền đã ăn sâu vào tiềm thức của người Nhật, thiền đã đi vào hoa, vào trà, vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân và cuối cùng nó nâng lên thành Đạo, trà đạo, hoa đạo...