Tiểu luận Thị trường dịch vụ Ngân hàng Việt Nam trước xu thế hội nhập

 Ngân hàng với vai trò là trung gian tài chính đã xuất hiện từ thời thượng cổ. Lịch sử của tổ chức này gắn liền với lịch sử của nền sản xuất hàng hóa. Qua nhiều giai đoạn thăng trầm, tổ chức này đã phát triển thành một hệ thống quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Các ngân hàng hiện nay đang cung cấp trên dưới 6.000 dịch vụ tài chính đáp ứng và phục vụ cho nhu cầu của mọi lĩnh vực hoạt động.  Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng vẫn còn rất non trẻ. Trước năm 1951, chỉ có các ngân hàng nước ngoài hoạt động nhằm phục vụ cho chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho giai cấp tư bản Pháp. Phải đến ngày 06/05/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mới chính thức thành lập, và sau này đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.  Năm 1986 có thể xem là năm đầu tiên đánh dấu sự thay đồi toàn diện của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đến năm 1990, Pháp lệnh NHNN Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “một cấp” sang “hai cấp”. Tháng 12/1997, Luật về ngân hàng Việt Nam cũng ra đời và mở đường cho sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam trong tiến trình đổi mới.  Sau gần 60 năm hoạt động, hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ngày một lớn mạnh, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới công nghệ. Đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WT O (ngày 11/01/2007), hệ thống ngân hàng nước ta ngày càng được hoàn thiện và hội nhập với thế giới

pdf25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thị trường dịch vụ Ngân hàng Việt Nam trước xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng Tiểu luận Thị trường dịch vụ Ngân hàng Việt Nam trước xu thế hội nhập Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 1/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng I/ Hệ thống ngân hàng và dịch vụ ngân hàng Việt Nam 1/ Hệ thống ngân hàng Việt Nam: 1.1/ Lịch sử phát triển:  Ngân hàng với vai trò là trung gian tài chính đã xuất hiện từ thời thượng cổ. Lịch sử của tổ chức này gắn liền với lịch sử của nền sản xuất hàng hóa. Qua nhiều giai đoạn thăng trầm, tổ chức này đã phát triển thành một hệ thống quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Các ngân hàng hiện nay đang cung cấp trên dưới 6.000 dịch vụ tài chính đáp ứng và phục vụ cho nhu cầu của mọi lĩnh vực hoạt động.  Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng vẫn còn rất non trẻ. Trước năm 1951, chỉ có các ngân hàng nước ngoài hoạt động nhằm phục vụ cho chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho giai cấp tư bản Pháp. Phải đến ngày 06/05/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mới chính thức thành lập, và sau này đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.  Năm 1986 có thể xem là năm đầu tiên đánh dấu sự thay đồi toàn diện của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đến năm 1990, Pháp lệnh NHNN Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “một cấp” sang “hai cấp”. Tháng 12/1997, Luật về ngân hàng Việt Nam cũng ra đời và mở đường cho sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam trong tiến trình đổi mới.  Sau gần 60 năm hoạt động, hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ngày một lớn mạnh, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới công nghệ. Đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WT O (ngày 11/01/2007), hệ thống ngân hàng nước ta ngày càng được hoàn thiện và hội nhập với thế giới 1.2/ C ơ hội và thách thức sau khi gia nhập WTO :  Tính đến nay, Việt Nam đã gia nhập WTO được 3 năm. Theo các cam kết, lĩnh vực ngân hàng sẽ phải mở cửa theo lộ trình 7 năm, gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các định chế tài chính nước ngoài theo những cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ và “mở” toàn bộ các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN.  Với những quy định trong quá trình hội nhập này, các ngân hàng Việt Nam đã dần thích nghi và phát triển mạnh mẽ. Tính đến 30/6/2009, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm 5 NHTMNN, 39 NHTMCP, 40 chi nhánh NHNNg, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh. Mạng lưới hoạt động của các ngân hàng đã trải rộng tới nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước 1.2.1 Cơ hội:  Khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn.  Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các NHTM phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là hoạt động quản trị ngân hàng, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính. Hội nhập quốc tế sẽ làm Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 2/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhất là trên thị trường tài chính khu vực.  Có cơ hội khai thác và sử dụng hiệu quả lợi thế của các hoạt động ngân hàng hiện đại đa chức năng, có thể sử dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ ngân hàng các nước phát triển. Ví dụ như việc bắt tay với các ngân hàng nước ngoài làm đối tác chiến lược như mối lương duyên giữa ACB và Standard Chartered Bank, Techcombank và HSBC, Sacombank và ANZ…Các đối tác này giúp cho NHTM hiện đại hóa công nghệ, đặc biệt là giúp đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng.  Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế dễ dàng hơn, hiệu quả tăng lên trong huy động và sử dụng vốn. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng nhanh nhạy, điều chỉnh linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.  Hội nhập còn tạo ra động lực thúc đẩy trong việc nâng cao tính minh bạch của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 1.2.2 Thách thức:  Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý. Áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài,  Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây nên.  Nguồn nhân lực vốn đã hạn hẹp của các ngân hàng Việt Nam có thể buộc phải chia xẻ cho các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng- tiền tệ nước ngoài sau hội nhập, bởi họ thường có chế độ thu hút nhân lực cao thông qua chế độ lương và các ưu đãi khác. Một sự dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao có thể diễn ra theo hướng bất lợi làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam.  Nguy cơ khủng hoảng tín dụng cao tập trung trong một số lĩnh vực làm gia tăng nguy cơ của hệ thống ngân hàng, khiến rủi ro thua lỗ và giảm vốn ngân hàng trở nên khó dự báo. 1.3/ Lợi thế và yếu điểm trong quá trình hội nhập: 1.3.1. Lợi thế:  Các ngân hàng Việt Nam có lợi thế về đồng cảm văn hóa kinh doanh. Niềm tin và những đồng cảm văn hóa là sức hút chủ yếu của các ngân hàng thương mại trong nước trong việc tiếp tục củng cố mối quan hệ truyền thống với khách hàng khi m à các đối thủ cạnh tranh tỏ rõ sự hơn hẳn về nhiều phương diện.  Hiện tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đã xây dựng được hệ thống phân phối rộng khắp, đặc biệt là thị trường nông thôn. Hiểu biết và khả năng thâm nhập thị trường vẫn sẽ là thế mạnh vượt trội của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài.  Thị phần ổn định, đối tượng khách hàng mục tiêu đã tương đối định hình cũng là một lợi thế lớn của ngân hàng thương mại Việt Nam. 1.3.2. Yếu điểm : Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 3/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng  Vốn điều lệ NHTM Việt Nam so với NHNNg còn khá khiêm tốn, tuy mới bổ sung thêm hai đại gia là Vietcombank và Vietinbank, dự định sắp tới là BIDV. Điều này làm hạn chế khả năng kinh doanh của NHTM.  Công nghệ đã được cải thiện với core-banking (phần mềm quản lý lõi) giúp giao dịch trong nội bộ ngân hàng cực kỳ nhanh chóng, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu khách hàng, đặc biệt là đối với sản phẩm thẻ.  Khả năng quản trị rủi ro còn yếu. Hầu hết các NHTM, đặc biệt là ngân hàng có vốn nhỏ do áp lực doanh thu từ các nhà đầu tư nên không quan tâm nhiều đến các yếu tố rủi ro, nên khi nền kinh tế có biến động hoặc khủng hoảng, ngân hàng thường chính là nguồn khởi phát.  Nguồn nhân lực ngân hàng thường đạt tỷ lệ 70-80% thuộc trình độ đại học, nhưng khả năng ứng dụng kiến thức kinh tế được học và kỹ năng làm việc chưa chuyên nghiệp. Hầu hết đều phải được tái đào tạo lại để phù hợp với nhu cầu thực tế của đơn vị. Nguồn lực có hiểu biết và chuyên môn cao về tài chính và thị trường tài chính chưa nhiều. 2/ Dịch vụ ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ tài chính cho công chúng. Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Chính vì thế, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang bước vào cuộc cạnh tranh mới về phát triển dịch vụ với mục tiêu đem đến nhiều tiện ích cho khách hàng và giảm rủi ro kinh doanh. 2.1/ Những thành tựu  Môi trường pháp lý cho hoạt động cung cấp các dịch vụ ngân hàng đã được hình thành và đang ngày càng hoàn thiện. Các chiến lược và chính sách từ phía Nhà nước đã và đang định hướng một cách hiệu quả cho hoạt động của hệ thống ngân hàng.  Cùng với các TCTD là những chủ thể chính trong cung cấp dịch vụ ngân hàng, đã xuất hiện thêm nhiều trung gian tài chính của các chủ thể nước ngoài, các tổ chức khác không phải ngân hàng cũng tham gia cung cấp dịch vụ ngân hàng. Tất cả đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên thị trường Việt Nam.  Các dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Cơ cấu lợi nhuận đang có những chuyển biến mới. Thay vì lệ thuộc vào các hoạt động truyền thống như tín dụng và huy động vốn, các dịch vụ mới như dịch vụ thanh toán, hối đoái, bảo hiểm, tư vấn…. đã được đầu tư phát triển để khai thác tiềm năng to lớn của thị trường  Đối tượng được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế được mở rộng hơn, bên cạnh các khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế đã xuất hiện rất nhiều khách hàng là các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.  Sự liên minh, liên kết giữa các ngân hàng đã dần được hình thành và phát triển, tạo một hệ thống kênh phân phối đa dạng nhằm phục vụ và nâng cao chất lượng của các dịch vụ ngân hàng. Ví dụ như liên minh thẻ Smartlink của Vietcombank với 15 ngân hàng thành viên, mạng thanh toán Paynet… 2.2/ Hạn chế  Sản phẩm dịch vụ ngân hàng dù đã cố gắng phát triển, nhưng còn mang tính truyền thống, nghèo nàn về chủng loại, chưa có tính đột phá. Bên cạnh đó, các ngân hàng chạy Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 4/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng đua cạnh tranh nhau về số lượng sản phẩm nhưng chưa chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng, nên chất lượng dịch vụ cung cấp thường thấp, tính tiện ích chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng.  Các dịch vụ ngân hàng chưa đáp ứng căn bản nhu cầu của các nhóm đối tượng khác nhau, trong đó phải kể tới các đối tượng là người có thu nhập thấp, người nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xa rất khó tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Đơn cử như tại các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng…thì chi nhánh ngân hàng rất nhiều, thậm chí có trên một con đường của Hà Nội có đến 8 chi nhánh của 8 ngân hàng, trong khi tại nông thôn thì phải đi hơn hai chục cây số mới tìm ra được một điểm.  Thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển dưới mức tiềm năng. Mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội nói chung và đặc biệt nhu cầu của dân cư về dịch vụ ngân hàng còn nhiều hạn chế do khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng còn chưa vươn kịp với nhu cầu của xã hội.  Kênh phân phối của các ngân hàng không đa dạng, hiệu quả thấp, phương thức giao dịch và cung cấp các dịch vụ chủ yếu vẫn là giao dịch trực tiếp tại quầy, các hình thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng công nghệ thông tin chưa phổ biến. Dịch vụ ngân hàng điện tử chưa được triển khai rộng rãi, lượng khách hàng sử dụng còn ít, nhiều ngân hàng mới chỉ hoạt động ở mức độ thử nghiệm, chưa đảm bảo mức độ an toàn cho giao dịch nên hiện tại giao dịch thanh toán thương mại điện tử vẫn còn hạn chế. *** Nguyên nhân chủ yếu:  Quy mô vốn của hệ thống ngân hàng nội địa còn thấp, khó tạo được năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng.  Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp, trình độ nhận thức của số đông dân cư về các hoạt động ngân hàng còn hạn chế.  Thói quen của người dân Việt nam khi sử dụng tiền mặt trong thanh toán chưa thể thay đổi được một mặt do các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt nam chưa thực sự tiện ích và chưa tiếp cận được mọi người dân (do cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa hoàn thiện).  Thị trường tài chính Việt nam chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của các tổ chức tín dụng về huy động vốn và đầu tư làm hạn chế khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng.  Khuôn khổ thể chế liên quan đến phát triển dịch vụ ngân hàng còn bất cập, chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Năng lực điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất của Ngân hàng nhà nước còn hạn chế. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá còn bất cập. Cơ chế quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng chưa theo kịp tiến trình hiện đại hoá ngân hàng và chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế  Hạ tầng công nghệ nói chung,công nghệ thông tin nói riêng và viễn thông quốc gia còn nhiều bất cập, phân tán, nhỏ lẻ và thiếu đồng bộ do đó đã không thể hỗ trợ cho quá trình phát triển, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. 2.3/ Tiềm năng:  Sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong những năm qua nếu bỏ qua sự cố ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ thì được đánh giá là có những kết quả vượt bậc. Điều này dẫn đến sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam cũng trở nên sôi động nhằm đáp ứng tốt và đầy đủ vốn và nhu cầu lưu thông tiền tệ của các đơn vị kinh tế. Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 5/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng  Dân số Việt Nam hiện nay đã hơn 85 triệu người. Mức sống của người dân ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân đầu người đã vượt con số 1.000 USD/người, sức mua (chi tiêu dùng) cũng tăng lên, tạo điều kiện cho các dịch vụ ngân hàng phát triển, mở rộng nhằm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.  Quan điểm của người Việt Nam đối với các dịch vụ ngân hàng đã có nhiều thay đổi. Những người trẻ tuổi đã và đang tích cực tiếp cận với các tiện ích của các dịch vụ ngân hàng.  Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh cũng đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ trong tương lai. II/ Sự phát triển của thị trường dịch vụ ngân hàng: 1/ Dịch vụ huy động vốn: 1.1/ Giới thiệu  Huy động vốn là một trong số những nghiệp vụ chính của ngân hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX, các tổ chức tín dụng được phép huy động vốn dưới các hình thức sau: - Nhận tiền gửi: của tổ chức, cá nhân, TCTD khác với các kỳ hạn khác nhau…. - Phát hành giấy tờ có giá: như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, giấy tờ có giá khác…. - Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng: các TCTD được vay vốn của nhau. - Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước: dưới hình thức tái cấp vốn.  Trong số các hình thức huy động này, hình thức huy động vốn dưới dạng tiền gửi là hình thức chiếm tỷ trọng cao nhất và đem lại nguồn cung tiền lớn trong tổng nguồn vốn huy động tại các ngân hàng.  Vào những năm gần đây, dịch vụ huy động tiền gửi của các ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng và linh hoạt hơn. Từ các hình thức tiền gửi truyền thống như tiền gửi tiết kiệm định kỳ, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, ..., các hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm rút gốc và lãi linh hoạt….cũng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và đối phó với những diễn biến của nền kinh tế. Không những thế, nguồn vốn huy động từ dân cư đã tăng mạnh, chiếm 35-40% vốn huy động, tạo tiềm lực rất lớn cho sự phát triển các dịch vụ huy động của các ngân hàng. 1.2/ Thành tựu  Từ những năm 90, lượng vốn huy động được qua hệ thống ngân hàng tăng trưởng không ngừng với tốc độ nhanh và vững chắc. Trung bình mỗi năm, lượng vốn này tăng thêm đến 25-30%. Với sự ổn định của hệ thống đồng tiền Việt Nam và việc giảm mức lạm phát từ phi mã xuống còn một con số, các ngân hàng Việt Nam đã phát huy được hiệu quả trong các chiến lược huy động vốn của mình.  Cho đến những năm gần đây, khi phải đối diện với xu thế hội nhập của nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng, sự nỗ lực trong việc gia tăng nguồn vốn huy động từ các nguồn khác nhau của các ngân hàng vẫn không hề tụt giảm. Lượng vốn huy động vẫn không ngừng tăng thêm với tốc độ nhanh, năm 2005 là 32,08%, năm 2006 là 36,53% và năm 2007 là 47,64%. Năm 2008, do suy thoái kinh tế nên tốc độ này có sụt giảm nhưng vẫn ở mức 22,87% và đến năm 2009, ước tính tốc độ tăng trưởng nhẹ trở lại lên 28,7% Biểu đồ 1: Huy động vốn từ nền kinh tế Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 6/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn 60% 53.99% 50% 41.15% 36.17% 40% 47.64% 30% 36.53% 27.74% 32.08% 22.87% 20% 29.66% 25.31% 22.81% 21.38% 10% 0% 2005 2006 2007 2008 Tổng vốn Huy động vốn bằng VNĐ Huy đ ộng vốn bằng ngoại tê Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước Biểu đồ 3: Tỷ trọng huy động vốn Năm 2007 Năm 2008 NHTMNN và NH chính sách xã hội Khối NH cổ phần, Phi NH và Quỹ tín dụng Khối chi nhánh nước ngoài và liên doanh Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước  Trong tổng số vốn huy động của hệ thống ngân hàng, các NHTMNN vẫn luôn dẫn đầu về tỷ trọng huy động. Lượng vốn mà nhóm các ngân hàng này huy động chiếm trên 50% tổng vốn huy động. Trong khi đó, các NHTM cổ phần khác chỉ huy động được khoảng trên 30%, còn lại là các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh. Với Nhóm 9 – Đêm 1 K19 Pg 7/25 GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng tỷ trọng này, có thể thấy các ngân hàng nước ngoài vẫn còn giữ một thị phần khá khiêm tốn trong cuộc cạnh tranh về huy động vốn trên thị trường 1.3 Khó khăn và tồn tại: Bên cạnh sự tăng trưởng của lượng tiền huy động được, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều hạn chế trong việc phát triển các dịch vụ huy động vốn của mình. Cụ thể như:  Lãi suất huy động vốn: Việc tăng hay giảm lãi suất huy động đối với một ngân hàng không phải là chuyện đơn giản bởi sự ràng buộc của các mức lãi suất cho vay và lãi suất trần do NHNN quy định (đang có kiến nghị bỏ lãi suất trần này vào năm 2010). Tuy nhiên, để cạnh tranh, các ngân hàng Việt Nam thường không tính toán hiệu quả kinh tế khi đưa ra các mức lãi suất huy động khác nhau. Đặc biệt, vào các thời điểm vốn vay vượt mức vốn huy động, các NHTM trước nhu cầu về vốn lại càng chạy đua lãi suất. Trong năm 2008 và 2009 vừa qua, sự biến động một cách chóng mặt của lãi suất huy động (lên đỉnh 19%/ năm rồi giảm xuống mốc 8% năm và đến thời điểm gần cuối năm 2009 lại lên mức 10,499%/năm) đã phản ánh tình trạng bất ổn của hệ thống lãi suất này. Với cuộc chay đua này, vô hình chung đã làm sụt giảm mức tỷ lệ lãi biên của các ngân hàng (năm 2009 chỉ còn 1%), đồng thời, tăng mức rủi ro cho các hoạt động huy động.  Khách hàng: Trước đây, quan niệm ngân hàng là nơi giữ tiền an toàn và có lãi của khách hàng đã giúp cho lượng vốn huy động của ngân hàng luôn ở mức cao. Nhưng ngày nay, người khách hàng đã có trình độ cao hơn, nhạy cảm hơn với lãi suất và thích những sản phẩm có tính thuận tiện và linh hoạt cao. Chính vì thế, để giữ chân được khách hàng, các ngân hàng cần phải nắm bắt được nhu cầu và phải đảm bảo các năng lực đáp ứng nhu cầu đó một cách hiệu quả  Sự phát triển của các kênh huy động khác: Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn) => Có thể thấy, hoạt động huy động vốn của ngân hàng Việt Nam vẫn tiếp tục gặt hái những thành công. Với lợi thế về hệ thống chi nhánh rộng khắp và những hỗ trợ từ phía Nhà nước, các NHTM Việt Nam thời gian vừa qua đã nắm giữ miế
Luận văn liên quan