Tiểu luận Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam

Trong 15 năm đổi mới, ngành nông nghiệp có những thuận lợi cơ bản là đã có được xuất phát điểm cao hơn về nhiều mặt, quá trình đổi mới nền kinh tế còn được tiếp tục đẩy mạnh, vị thế nước ta trên trường quốc tế cao hơn. Quá trình hội nghập khu vực và hội nhập quốc tế tạo ra nghiều cơ hội và thách thức. Vậ đâu là cơ hội và đâu là thách thức cho nông sản Việt Nam nhất là trong thời kỳ hiện nay tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh trên cơ sở [hát huy các lợi thế so sánh từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ phát triển bền vững, sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn phục vụ nhu cầu xuát khẩu. vậy làm thế này để việc xuất khẩu hàng hoá nông sản phát triển đi xa hơn nữa? Bàn về vấn đề này, nhóm em đã chọn đề tài tiểu luận: “ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khảu hàng nông sản Việt Nam”. Bài tiểu luận này chúng em chia làm 4 phần: Phần I: Khái quát về thị trường nông sản Việt Nam. Phần II:Thực trạng về việc sản xuất nông sản ở Việt Nam và việc xuất khẩu ra thị trường thế giới. Phần III: Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng nông sản. Phần IV: Kết luận.

docx9 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7775 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong 15 năm đổi mới, ngành nông nghiệp có những thuận lợi cơ bản là đã có được xuất phát điểm cao hơn về nhiều mặt, quá trình đổi mới nền kinh tế còn được tiếp tục đẩy mạnh, vị thế nước ta trên trường quốc tế cao hơn. Quá trình hội nghập khu vực và hội nhập quốc tế tạo ra nghiều cơ hội và thách thức. Vậ đâu là cơ hội và đâu là thách thức cho nông sản Việt Nam nhất là trong thời kỳ hiện nay tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh trên cơ sở [hát huy các lợi thế so sánh từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ phát triển bền vững, sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn phục vụ nhu cầu xuát khẩu. vậy làm thế này để việc xuất khẩu hàng hoá nông sản phát triển đi xa hơn nữa? Bàn về vấn đề này, nhóm em đã chọn đề tài tiểu luận: “ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khảu hàng nông sản Việt Nam”. Bài tiểu luận này chúng em chia làm 4 phần: Phần I: Khái quát về thị trường nông sản Việt Nam. Phần II:Thực trạng về việc sản xuất nông sản ở Việt Nam và việc xuất khẩu ra thị trường thế giới. Phần III: Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng nông sản. Phần IV: Kết luận. A-Kết luận B-Một vài ý kiến của nhóm PHẤN I: KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM I- Tầm quan trọng của nông nghiệp đối nền kinh tế quốc dân: Đất nước ta cất cánh tứ một nến kinh tế nông nghiệp, nộng nghiệp Việt Nam chiếm 30% giá trị xuất khẩu và 25% tổng GDP quốc gia, 76% dân số sống ở nông thôn. Giai đoạn 1977-1978, lĩnh vực nông nghiệp đã tạo ra việc làm cho lao động cả nước thu nhập danh nghĩa của người dân nông thôn tăng 12%/năm trong thời kì 1992-1993 đến 1997- 1998, trong đó nông nghiệp đóng góp 76%. Sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn được coi là cơ sở cho sự phát triển kinh tế thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước (CNH-HĐH) đất nước. Việc đổi mới trong nông nghiệp đã mở đầu cho quá trình cải tổ kinh tế ở Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam phất triển kinh tế. Trước năm 1998, Việt Nam luôn trong tình trạng mất an ninh lương thực thực phẩm, phải nhập khẩu hằng năm để đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhờ những chính sách đúng đắn trong giao quyền sử dụng đất cho nông dân, phát triển kinh tế nông hộ, tự do hoá thương mại,… giai đoạn 1990-1991 nông nghiệp đạt tốc độ phát triển nhanh. Sự phát triển nhanh trong lĩnh vực nọng nghiệp có ý nghĩa quan trọng không những đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế mà còn tạo ra việc làm, giảm đói nghèo.Đời sống nhân dân được cài thiện rõ rệt, tốc độ tăng thu nhập trên 10%từ năm 1995 tới nay. Hướng tới mục tiêu phát triển dài hạn về nông nghiệp là xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng và mạnh dựa trên các cơ sở so sánh, áp dụng công nghệ mới, có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới có cơ cấu kinh tế phù hợp, cơ cấu công – nông - dịch vụ cùng phát triển, được CNH-HĐH gắn với đô thị hoá mọi người có việc làm, có cuộc sống sung túc, không còn đói nghèo, xã hội nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, gìn giữ bản sắc dân tộc. II- Mặt hàng nông sản với việc xuất khẩu ra thị trường thế giới: Những năm gần đây, thế giới biết đến Việt Nam như là một nước tiến hành thành công trong việc đổi mới, trong đó có sự góp sức đáng kể của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Được thành lập năm 1945 cùng với nước Việt Nam độc lập, ngành nông gnhiệp đã trải qua 55 năm thăng trầm của sự phát triển kinh tế. do xuất phát từ nến kinh tế quá thấp, hậu quả của chiến tranh nặng nề với thiếu sót và sai lầm trong công tác chỉ đạo nên đến năm 1985 kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Thực hiện đổi mới toàn diện (12/1986), trong đó đổi mới kinh tế trọng tâm, ngành nông nghiệp đã có những tiến bộ vượt bậc. Kết quả là như năm 1988 ta phải nhập khẩu gạo gần 1triệu tấn, mở đầu cho thời kỳ gạo và các mặt hàng nông sản khác của Việt Nam có mặt trên thị trường thế giới. Sản lượng lương thực tăng bình quan 1.2 triệu tấn / năm, lượng gạo xuất khẩu năm 1999 đạt 4.5 triệu tấn. Trồng trọt phát triển theo xu hướng đa dạng hoá sản phẩm, bằng hiểu quả đát đai và lao động, một số cây công nghiệp chủ yếu đã hình thành được các vùng sản xuất hàng hoá tập trung với khối lượng lớn. Khối lượng sản phẩm cà phê hiện đạt trên 400.000 tấn, cao su trên 200.000 tấn, chè 65.000 tấn, đương các loại 750.000 tấn .v.v… Diện tích cây ăn quả đạt diện tích khoảng 480.000 ha, sản lượng ước chừng 4.5 triệu tấn. Trong khi một số sản phẩm như đường, rau quả, … chủ yếu được sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước nhưng nhiều loại sàn xuất ra để xuất khảu với tỷ lệ rất cao như cà phê 95%, điều 100%, cao su 80-85%, hạt tiêu 95%,… Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, xuất khầu điều lớn thứ 4 thế giới. năm 1999, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam ước đạt 3.5 tỷ USD, tăng 11%. Đây là một số nét chính về việc xuất khẩu nông sản ra thị trường thế giới mà nước ta đã đạt được trong thời gian qua. PHẦN II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM VÀ XUẤT KHẢU RA THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI I- Tình hình chung: Nếu như kim ngạch xuất khẩu nông sản giai đoạn 1991-1995 đạt 1.3 tỷ USD/năm, thì đến giai đoạn 1995-2000 đã đạt 2.5 tỷ USD/năm, giai đoạn 2001-2003 đạt 2.8 tỷ USD/năm. Với số lượng xuất khảu như hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ nhất trên thế giới về xuất khẩu hồ tiêu, thứ 2 về gạo và cà phê, thứ 7 về cao su, thứ 8 về chè,… (theo số liệu 2004). Đây là những thành tựu không thể phủ nhận đối với xuất khảu nông sản Việt Nam trong những nam qua. Tuy nhiên tiến trình hiện nay đã đặt ra cho hàng nông sản xuết khẩu của Việt Nam không ít khó khăn. Đi lên từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, chuyển sang nền sản xuất hàng hoá hướng ra xuất khẩu, khó khăn và hạn chế của nước ra hiện nay là quy mô sản xuất nông nghiệp theo hộ gia đình còn quá nhỏ bé, đất đai hạn chế. Theo thống kê của bộ NN&PTNT Việt Nam cho biết bình quân cả nước về diện tích đất nông nghiệp trên hộ gia đình chỉ khoảng 0.86ha/hộ (có khoảng 10,9 triệu hộ), nếu như so sánh với Malaysia là 5ha/hộ, Thái Lan là 3ha/hộ thì Việt Nam vào loại thấp nhất trong khu vực. Chính điều này đã hạn chế khả năng đưa tiến bộ KHKT vào sản xuất trên diện rộng, đa số nông dân chỉ đủ sống, không có khả năng tích luỹ để áp dụng các thiết bị, kỹ thuật nhằm HĐH-CNH sản xuất nông nghiệp. Do đó nhìn chung năng xuất và chất lượng nhiều loại nông sản trên cả nước còn thấp. Bên cạnh đó công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản của chúng ta phát triển chậm, một số ngành có tỷ lệ chiếm thấp như rau quả (trên dưới 10%) dẫn đến việc đem lại giá trị gia tăng là rất hạn chế. Không chỉ vậy kết cấu hạ tầng, lưu hành nông sản phát triện chậm, hệ thống chợ buôn bán, chợ nông sản, kho, cảng,… còn nhiều bất cập. Chi phí bến, bãi , kho, cảng, vận chuyển của nước ta thường cao hơn 25-30% so với các nước khác trong khu vực. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Đó là một số nét chính về tình hình chung của thị trường nông sản trong nước, dưới đây là một số nết về thị trường quốc tế đối với nông sản Việt Nam: Đối với khu vực mậu dịch ASEAN-Trung Quốc (AC-HA), hàng nông sản Việt Nam sẽ phải cạng tranh gay gắt đối với hàng cùng loại của các nước trong ASEAN cũng xuất khẩu sang Trung Quốc. Các nhà chuyên gia cho rẳng lợi thế sẽ nghiêng về các nước như Thái Lan, Singapo,… Vì đây là các nước có trình độ công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm tốt hơn nước ta ví dụ một số mặt hàng : đường, rau quả chế biến, đầu thực vật,… Mặt khác, để đảm bảo cho nền sản xuất trong nước , Trung Quốc đã đặt ra thuế nhập khẩu, một số mặt hàng nông sản rất cao như: gạo 71%, rau tươi 13%, hoa quả tươi 24-36%, đường 65%,… nên đã hạn chế tốc độ tăng trưởng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Đối với hiệp địng thương mại Việt-Mĩ, các chuyên gia dự đoán những mặt hàng có khả năng tăng xuất khẩu sang Mĩ như rau củ quả sẽ bị sự hạn chế bởi sự cồng kềnh, khoảng cách 2 nước khá xa, yêu cầu chất lượng vệ sinh an toàn cao. Hơn nữa khi xuất khẩu vào Mĩ, yêu cầu phải kê khai thong tin lien quan đến cơ sở sản xuất, xuất khẩu hàng hoá sang Mĩ,… điều này sẽ làm tnăg chi phí XK,giảm khả năng cạnh tranh đối với hàng nông sản Việt Nam. Trên đây là một số nét chính về tình hình phát triển nông sản trong nước và xuất khẩu ra thế giới khi nước ta đang trong tiến trình hội nhập. II- Đánh giá: a) Lợi thế: Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, có 3 mặt giáp biển với chiều dài bờ biển khoảng 3200 km, lại nằm ở vị trí ngã 3 đường nên rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các nước. Hơn nữa nước ta có hệ thống cảng biển, cảng sông và giao thông đường sắt tương đối thuận lợi. Khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa, ấm ẩm mưa nhiều rất thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp. Nuớc ta có khí hậu đa dạng, phân biệt rõ dệt giữa các vùng. Từ Bắc vào Nam với mùa đông lạnh ở miền Bắc; khí hậu kiểu Nam á ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; khí hậu có tính chất trung gian chuyển tiếp ở ven Trung Bộ. Thêm vào đó diện tích đất nông nghiệp Việt Nam vào khoảng từ 10 đến 11,57 triệu ha, trong đó khoảng gần 8 triệu ha trồng cây hàng năm và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ sử dụng hết khoảng 65% quỹ đất nông nghiệp, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu ha và cây trồng lâu năm là 86 vạn ha. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên nông sản nước ta rất phong phú, đa dạng. Một yếu tố quan trọng nữa là người dân Việt Nam có tính cần cù sáng tạo, kiên nhẫn học hỏi, thông minh nên tiếp thu nhanh những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó lại có khoảng 71,6% lao động xã hội và khoảng 80% dân số sống bằng nghề nông. Đây là điều kiện thuận lợi để đưa đất nước ta trở thành một nước đứng đầu về sản xuất nông nghiệp. Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp có thể chủ động kinh doanh, chủ động về tài chính. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển, năng động hơn trong công việc, tìm kiếm được hướng đi phù hợp với mình. Với những lợi thế so sánh nêu trên thì triển vọng tăng các mặt hàng nông sản của nước ta là rất lớn. b) Khó khăn: Trong quá trình xuất khẩu hàng nông sản vẫn còn nhiều yếu kém khó khăn. Những yếu kém khó khăn đó có thể nói bắt nguồn từ hai phương diện: tác động từ môi trường bên trong và tác động từ môi trường bên ngoài. Các tác động từ môi trường bên ngoài đó là những nhân tố thuộc hoàn cảnh, tình hình thế giới, hệ thống pháp luật, chủ trương, chính sách phát triển đối với nông nghiệp của Chính phủ và nhà nước ta. Các tác động từ môi trường bên trong chính là từ các đơn vị sản xuất, đơn vị kinh doanh. Sau khi nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của các ngành hàng nông sản xuất khẩu, ta thấy vẫn cón nhiều yếu kém, nhiều khó khăn cần được nêu ra và có hướng giải pháp khắc phục. Trước hết là về vấn đề chất lượng sản phầm, các doanh nghiệp Việt Nam đã không kiểm soát được chất lượng sản phẩm để xuất khẩu ngay từ khi nông dân mới thu hoạch sản phẩm đến khi chế biến. Đo đó vấn đề chấ lượng kém luôn là vấn đề khách hàng than phiền nhiều nhất. Chẳng hản như gạo Việt Nam không thuần giống và luôn bị công ty xuất khẩu paha trộn giống, cà phê thì đủ loại hạt và cở hạt,… khi đó khách hàng không thề trả giá cao cho sản phẩm như thế. Việc quy hoạch và tổ chức sản xuất nông sản (tiêu biểu là trái cây) theo từng vùng chuyên canh, quy mô lớn còn nhiều khó khăn. Đo đó không thể đáp ứng các đơn đặt hàng lớn, ổn định được mặc dù nước ta có nhiều loại trái cây ngon và có lợi thế cạnh tranh như: Thanh Long, Vú sữa Lò rèn, Xoài cát Hoà Lộc, Bưởi Năm roi,… Cạnh đó là sàn xuất không có sự lien kết được của nhà sản xuất, nhà khoa học lẫn người buôn bán nên chưa có thể tạo được sự mong muốn. Một bất lợi nữa là sau khi Trung Quốc tham gia và WTO, họ ngay lập tức ký miễn thuế 180 mặt hàng, phần lớn là trái cây, trong khi Việt Nam không nắm bắt cơ hội hay có biện pháp gì để gửi thị trường Trung Quốc vốn chiếm 80% lượng trái cây xuất khẩu hằng năm của Việt Nam. Do đó vài năm gần đây, lượng hàng xuất khẩu trái cây của Việt Nam đã giảm sút do mất thị trường Trung Quốc. Và điều bức xúc nữa là các doanh nghiệp chưa ý thức rõ ý nghĩa của việc xây dựng thương hiệu, chính điều này đã gấy khó khăn cho đầu tư xây dựng chiến lược tiếp thị, quảng cáo cho sản phẩm. Đó là một số thử thách cơ bản làm giảm kim ngach xuất khẩu nông sản của nước ta. PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG SẢN I- Các giải pháp từ phía Nhà nước: Nhà nước cần có những biện pháp thích hợp để giúp đỡ các doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, và cụ thể là: a) Quy hoạch sản xuất nông sản. Vấn đề quy hoạch nông sản là vấn đề đã được các nhà chuyên môn nghiên cứu và tìm ra giải pháp hiệu quả nhất bởi vì quy hoạch nông sản giúp cho việc phát huy được những thế mạnh của từng vùng nông sản. b) Cải tiến, làm đơn giản hơn các quy trình thủ tục. Những quy định về XNK và hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động XNK nói chung. Để tạo điều kiện cho hoạt động XNK nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng thì hệ thống chính sách và quy định trong xuất khẩu phải được đổi mới, hoàn thiện. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng trao đổi, buôn bán. c) Nhà nước cần có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản để tạo ra các sản phẩm nông sản xuất khẩu có chất lượng cao, chi phí thấp làm tăng sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. d) Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu Do thị trường hàng nông sản luôn biến động rất phức tạp: trong đó tình hình giá cả và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường luôn thay đổi dẫn đến nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị lúng túng trong công việc điều hành xuất khẩu nông sản do không nắm vững được những thông tin cần thiết. Vì vậy Nhà nước nên lập những ngân hàng dữ liệu cập nhật đầy đủ các thông tin về nhu cầu, giá cả, luật thương mại của các nước trên thế giới… để tạo điều kiện thuân lợi kinh doanh cho cac doanh nghiệp. e) Chính sách hỗ trợ công nghệ chế biến và kiểm soát chất lượng nông sản xuất khẩu. Do thiếu vốn, thiếu thông tin, các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ít có điều kiện để nâng cấp công nghệ chế biến nông sản. Vì vậy, công nghệ chế biến của ta thường lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ so với các nước phát triển. Điều đó làm cho giá thành sản phẩm cao và chất luợng không được cao. Thêm nữa, các nhà doanh nghiệp cũng cần có hệ thống kiểm soát chât lượng để có thể hiểu được các yêu cầu về chất lượng của sản phẩm. Từ đó mới tạo được chất lượng sản phẩm tốt, có được uy tín với khách hàng. f) Hỗ trợ về giá cả cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu nhằm khuyến khích người dân và cả các nhà doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động này. II. Các giải pháp từ phía nhà doanh nghiệp: a- Hoàn thiện cơ chế quản lý và cải cách cơ cấu bộ máy theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả. Hệ thống tổ chức bộ máy có vai trò rất lớn đối với việc phát huy năng lực của các phòng ban, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên, Tổ chức gọn nhẹ, thông suốt thì hoạt động của doanh nghiệp mới đạt hiệu quả cao. b- Nghiên cứu xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh là hệ thống các mục tiêu, các chương trình và các giải pháp củ thể nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng như kim chỉ nam cho mọi hoạt dộng của doanh nghiệp. c)Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường quốc tế. Có thể nói: “ xác lập mạng lưới thông tin tốt, thu thập được những thông tin đầy đủ và chính xác là hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đã thành công được 50%”. Do đó thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, nó là chìa khoá hoạch định cho chiến luợc phát triển đầu tư của mỗi doanh nghiệp. d)Tổ chức tốt mạng lưới thu mua nông sản. Mặt hàng nông sản có rất nhiều đặc tính khác với các loại hàng hoá khác. Công tác thu mua hàng nông sản diễn ra trong thời gian gắn liền với một khối lượng lớn theo mùa vụ. Vì vây đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phai có mạng lưới thu mua khắp nơi để chủ động tạo nguồn hàng vững chắc cho hoạt động xuất khẩu. e) Chú trọng công tác kiểm tra, xác định tiêu chuẩn, chất lượng cho hàng nông sản xuất khẩu trên cơ sở xây dựng đồng nhất chất lượng sản phẩm. Chất lượng hàng hoá cao sẽ gây được uy tín tốt với các đối tác, tạo ra được những mối làm ăn lâu dài, đem lại hiệu quả kinh tế cao. f) Lựa chọn phương thức bán hàng hợp lý. Để tránh những rủi ro, tổn thất không đáng có thì mỗi doanh nghiệp phải tìm hiểu những phương thức bán hàng hợp lý nhất.( Ví dụ: tìm loại phương tiện vận chuyển nào là hợp lý nhất, ít rủi ro nhất. Phương thức ký kết hợp đồng theo điều khoản nào trong luật thương mại quốc tế là có lợi nhất). g) Nâng cao, bồi dưỡng trình độ đội ngũ cán bộ nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Có thể nói trong mọi hoạt động, yếu tố con người đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Trong kinh doanh XNK cũng vậy, trình độ của đội ngũ cán bộ XNK là một trong những nhân tố quyết định đến hiệu quả của XNK. Chính vì vậy nhiệm vụ hàng đầu đối với doanh nghiệp là xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm để hoạt động kinh doanh xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất, tránh những thiệt hại không đáng có do thiếu hiểu biết. h) Ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực ngoại thương( Thương mại điện tử) Trong nền kinh tế tri thức hiện nay không những đòi hỏi cán bộ, công nhân viên chức phải có nghiệp vụ kinh doanh XNK mà còn phải lắm bắt đuợc khoa học công nghệ thông tin. Thông qua đó việc kinh doanh sẽ trở lên dễ dàng hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí hơn. PHẦN IV: KẾT LUẬN A-Kết luận: Việt Nam được đánh giá là một nước có vị trí địa lý thuận lợi, đất đai mầu mỡ, khí hậu nhiệt đới gío mùa, phù hợp với việc trồng các loại cây nông nghiệp. Thực tế đã chứng minh bằng việc xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, có lượng cà phê đứng đầu trong khu vực, chè xuất khẩu đang ngày cáng khẳng định trên thị trường thế giới. Tuy nhiên bên cạnh đó, các mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta cũng có những điểm hạn chế chủ yếu về công nghệ lạc hậu chưa được thay thế, chất lượng sản phẩm kém chưa phù hợp với thị trường, mạng lưới thu mua cho xuất khẩu cũng như các đầu mối xuất khẩu hoạt động chưa hiệu quả, còn mang tính độc quyền… đã làm hạn chế đến xuất khẩu, thêm vào đó là thông tin vừa chậm vừa thiếu chính xác, đôi khi còn trong tình trạng thiếu thông tin làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm trong khi số lượng xuất khẩu tăng. Với những mặt mạnh và những mặt còn hạn chế như vậy, để xuất khẩu hàng phát triển hàng nông sản hơn nữa thì giữa Nhà nước và các nhà doanh nghiệp phải có sự kết hợp chặt chẽ để tìm ra những giải pháp hợp lý, góp phần làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển. B- Một vài ý kiến của nhóm: Theo ý kiến của nhóm chúng tôi thì con đường duy nhất là quy hoạch bởi quy hoạch là tiền đề phất triển nông nghiệp bền vững, cần phải quy hoạch lại sản xuất theo hướng chuyên canh trên diện tích lớn cho từng loại nông sản, tổ chức tiếu thụ nông sản qua các hợp tác xã. Một nền nông nghiệp phát triển bền vững tất yếu phải đi theo hướng áp dụng kịp thời vả rộng rãi công nghệ sinh học, cần công nghiệp hoá nông nghiệp. Vấn đề chế biến cũng là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả chất lượng và từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy cần đẩy nhanh tốc độ hội nhập cả về ứng dụng các công nghệ hiện đại, cả về các công trình nghiên cưu khoa học mang tính đặc thù của vùng nhiệt đới ẩm. Điều quan trọng hơn nữa là xây dựng và phát triển nhãn hiệu hàng hoá và thương hiệu cho một số mặt hàng nông sản. Từ các vấn đề trên ta phải có một chiến lược tổng thể với những chương trình hành động cụ thể lien kết được các nhà khoa học, người nông dân, nhà kinh doanh, các nhà tiếp thị, các ngân hà
Luận văn liên quan