Tiểu luận Thuế đánh vào tiết kiệm

Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng hiện tại. Việc tiết kiệm của người dân là nguồn vốn cho sự phát triển của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này , các nhà hoạch định chính sách trên tòan thế giới đã trở nên ngày càng quan tâm trong việc phát triển chiến lược hiệu quả để khuyến khích tiết kiệm. Quan tâm này đã trở thành đặc biệt nghiêm trọng tại Hoa Kỳ, nơi có tỷ lệ tiết kiệm hiện nay rất thấp. Những lo lắng về tiết kiệm thấp đã dẫn đến một loạt cách chính sách được thiết kế để kích thích tiết kiệm thông qua hệ thống thuế. Việc có nên đánh thuế vào tiết kiệm hay không, cách đánh như thế nào còn là vấn đề còn đang được tranh luận. Đã có nhiều câu hỏi được đặt ra : Liệu cấu trúc thuế thu nhập có làm giảm khối lượng tiết kiệm của người dân hay không ? Chính phủ có nên sử dụng lu ật thuế để khuyến khích người dân tíêt kiệm hơn ? Nếu có, các khuyến khích nên được cấu trúc như thế nào ? Đề tài này giới thiệu nguyên cứu các quyết định tiết kiệm. Quy mô tiết kiệm của xã hội sẽ làm cho vốn của nền kinh tế dồi dào hơn và điều này là y ếu tố then chốt của tăng trư ởng kinh tế. Do vậy một trong những các tranh luận chính sách ở Mỹ và thế giới là vai trò thích hợp của thuế đánh vào thu nhập từ vốn, tức là thuế đánh trên sự sinh lợi của tiết kiệm. Còn đối với Việt Nam về vấn đề này thì sao, đang nghiên cứu, đã áp dụng hay không phù hợp với nền kinh tế. Bài tiểu luận này cũng sẽ giới thiệu sơ nét thêm về vấn đề trên.

pdf21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thuế đánh vào tiết kiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 1 Tiểu luận THUẾ ĐÁNH VÀO TIẾT KIỆM Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 2 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 I. Thuế và tiết kiệm –Mô hình và lý thuyết minh chứng ............................................ 4 1.1. Lý thuyết truyền thống ................................................................................................ 4 1.2. Minh chứng : lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm ................................................. 6 1.3. Lạm phát và thuế tiết kiệm .......................................................................................... 6 II. Các mô hình tiết kiệm khác ...................................................................................... 8 2.1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro ........................................................................... 8 2.2. Mô hình tự kiểm soát .................................................................................................. 9 III. Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm hưu trí ................................ 10 3.1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí ....................................................... 10 3.1.1. Trường hợp nghiên cứu điển hình- Mỹ ................................................................ 10 3.1.2. Đối với Việt Nam ................................................................................................. 14 3.2. Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế ........................................ 16 3.3. Những hàm ý cho các mô hình tiết kiệm khác ............................................................ 19 KẾT LUẬN............................................................................................................ 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 21 Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 3 LỜI MỞ ĐẦU Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng hiện tại. Việc tiết kiệm của người dân là nguồn vốn cho sự phát triển của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này, các nhà hoạch định chính sách trên tòan thế giới đã trở nên ngày càng quan tâm trong việc phát triển chiến lược hiệu quả để khuyến khích tiết kiệm. Quan tâm này đã trở thành đặc biệt nghiêm trọng tại Hoa Kỳ, nơi có tỷ lệ tiết kiệm hiện nay rất thấp. Những lo lắng về tiết kiệm thấp đã dẫn đến một loạt cách chính sách được thiết kế để kích thích tiết kiệm thông qua hệ thống thuế. Việc có nên đánh thuế vào tiết kiệm hay không, cách đánh như thế nào còn là vấn đề còn đang được tranh luận. Đã có nhiều câu hỏi được đặt ra : Liệu cấu trúc thuế thu nhập có làm giảm khối lượng tiết kiệm của người dân hay không ? Chính phủ có nên sử dụng luật thuế để khuyến khích người dân tíêt kiệm hơn ? Nếu có, các khuyến khích nên được cấu trúc như thế nào ? Đề tài này giới thiệu nguyên cứu các quyết định tiết kiệm. Quy mô tiết kiệm của xã hội sẽ làm cho vốn của nền kinh tế dồi dào hơn và điều này là yếu tố then chốt của tăng trưởng kinh tế. Do vậy một trong những các tranh luận chính sách ở Mỹ và thế giới là vai trò thích hợp của thuế đánh vào thu nhập từ vốn, tức là thuế đánh trên sự sinh lợi của tiết kiệm. Còn đối với Việt Nam về vấn đề này thì sao, đang nghiên cứu, đã áp dụng hay không phù hợp với nền kinh tế. Bài tiểu luận này cũng sẽ giới thiệu sơ nét thêm về vấn đề trên. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 4 THUẾ ĐÁNH VÀO TIẾT KIỆM I. Thuế và tiết kiệm –Mô hình và lý thuyết minh chứng: 1.1. Lý thuyết truyền thống : Trong lý thuyết truyền thống về tiết kiệm, vai trò của tiết kiệm là ổn định tiêu dung theo thời gian. Một cá nhân có nhiều thu nhập hơn khi đi làm và có ít thu nhập hơn khi nghỉ hưu. Do bởi quy luật thỏa dụng biên giảm dần nên để tối đa hóa thỏa dụng cá nhân sẽ giảm chi tiêu trong những lúc thu nhập cao và tăng chi tiêu trong những lúc thu nhập nhận được thấp, khi đó tiết kiệm sẽ thể hiện vai trò ổn định hóa tiêu dùng. Mô hình này còn gọi là mô hình lựa chọn theo thời gian, việc lựa chọn số lượng tiết kiệm chính là lựa chọn cách thức phân bổ tiêu dùng cá nhân theo thời gian. Tiết kiệm chính là phần còn lại của thu nhập cá nhân sau khi đã trừ đi tiêu dùng hiện tại. Cũng giống như mô hình cung lao động, chúng ta không thể trực tiếp mô hình hóa tiết kiệm mà mô hình hóa việc tiêu dung theo thời gian.  Mô hình đơn giản: Có thể chia cuộc đời con người làm 2 giai đoạn:  Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn còn làm việc nhận được thu nhập Y.  Giai đoạn thứ hai la thời gian về hưu không kiếm được thu nhập. Chúng ta xác định tiết kiệm bằng việc phân tích sự lựa chọn của cá nhân trong việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất CW và thứ hai CR qua mô hình lựa chọn theo thời gian trong trường hợp không có thuế và có thuế. BC1BC2 IC1 Ðô dôc = - (1+r) Ðô dôc = - (1+r(1-t)) Tiêu dùng giai doan 2, CR Tiêu dùng giai doan 2, CR Y(1+r) Y(1+r(1-t)) C1 R C2 R A B C1W Y S S(1+r) Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 5 Trong đó: Cw : tiêu dùng của cá nhân trong giai đoạn làm việc. S : phần tiết kiệm mà cá nhân để dành (S=Y-Cw) r : lãi suất ngân hang. t : thuế đánh trên lãi tiết kiệm. CR : tiêu dùng của cá nhân trong giai đoạn nghỉ hưu. (CR =S(1+r)) IC1 : đường bàng quan thể hiện mong muốn của cá nhân về mức độ ồn định tiêu dùng theo thời gian. BC1,2 : đường ngân sách trước và sau thuế. Độ dốc của đường ngân sách chính là chi phí cơ hội của việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất.  Hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập của thuế đánh vào tiết kiệm Sự thay đổi giá cả từ kết quả của việc đánh thuế vào tiết kiệm luôn gây ra hai hiệu ứng là  Hiệu ứng thay thế (giá cả của CW giảm làm cho tiêu dùng tăng trong giai đoạn thứ nhất)  Hiệu ứng thu nhập (thu nhập sau thuế thấp hơn làm cho tiêu dùng giảm trong giai đoạn thứ nhất) CW CR Y(1+r) Y(1+r(1-t)) IC2 IC1 C2 W C2 R C1 R C1 W Y BC1BC2 S2 S1 S 2 (1 +r (1 -t) ) S 1 (1 +r ) A C C1 R CW CR Y(1+r) Y(1+r(1-t)) C3 R C1 WC3 W IC1 IC3 S1 S3 Y BC1BC2 S 3 (1 +r (1 -t) ) S 1 (1 +r ) A B ( Hiệu ứng thay thế lớn hơn) ( Hiệu ứng thu nhập lớn hơn) Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 6 1.2. Minh chứng : lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm Không giống như lý thuyết thực nghiệm về cung lao động, có ít sự đồng tình về tác động của thuế hay lãi suất đến các quyết định tiết kiệm. Thông qua các nghiên cứu thực nghiệm thì các ước lượng về độ co giãn của tiết kiệm với lãi suất sau thuế nằm trong khoảng 0 đến 0,67. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lãi suất sau thuế và tiết kiệm là một vấn đề khó khăn. Xác định mức lãi suất hợp lý để áp dụng là rất khó, bởi vì: chúng ta có thể dễ dàng đo lường tiền lương của một công nhân nào đó nhưng rất khó để đo lường mức lãi suất thỏa đáng của một người tiết kiệm nào đó. Bên cạnh đó, lãi suất của bất kỳ dạng tiết kiệm nào cũng thay đổi theo thời gian với cách thức như nhau cho tất cả mọi người. Ngoài ra, sự co giãn của tiết kiệm theo lãi suất sau thuế là tham số quyết định đối với các nhà phân tích chính sách nên cần phải có những nghiên cứu thêm để xác định mức độ tác động của lãi suất đến tiết kiệm. 1.3. Lạm phát và thuế tiết kiệm Sự trườn lên ngưỡng đánh thuế (bracket creep): cá nhân có thể cảm nhận được sự tăng lên của thuế suất mặc dù thu nhập thực (theo đồng đô la cố định) của họ không hề tăng. Ví dụ: Năm 1979-1980, giá cả tăng 11,3%, lương cũng tăng tương ứng 11,3%. Năm Thu nhập Mức thuế Thuế phải trả Thu nhập sau thuế 1979 16.500 $ 21% 2.370$ 14.130$ 1980 19.365 $ 24% 2.815 $ 15.550 $ Mức tăng 11,3% 10% Thu nhập tăng lên trong năm 1980 vừa đủ để loại trừ 11,3% tỷ lệ lạm phát của năm đó, do vậy thu nhập thực (lượng hàng hóa mà người đó có thể thu được với thu nhập danh nghĩa) là không đổi nếu mức thuế vẫn là 21%. Tuy nhiên do vượt thuế lên thuế suất biên 24% nên thu nhập sau thuế chỉ tăng 10% trong khi đó giá cả tăng 11,3%. Bởi vì cơ sở đánh thuế là cố định nên tiền lương tăng với mức quá nhỏ theo đà lạm phát.  Hướng giải quyết: năm 1981, Quốc hội đã điều chỉnh cơ sở đánh thuế với thu nhập thường xuyên, thuế suất biên đặt trên cơ sở thu nhập thực, không phải trên cơ sở thu nhập danh nghĩa. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 7 Lạm phát và thuế vốn: điều chỉnh theo giá cả đối với cơ sở đánh thuế cũng chưa chắc hoàn toàn loại trừ tác động của lạm phát bởi vì quy định đối với thuế thu nhập trên vốn vẫn giữ không đổi. Tình huống Tỷ lệ lạm phát Thuế suất đ/v tiền lãi Tiết kiệm Lãi suất danh nghĩa Tiền lãi Tổng nguồn lực sau thuế Giá mỗi túi không khí Số lượng túi k. khí Không có lạm phát 0% 0% 100 10% 10 110 1,0 110 0% 50% 100 10% 10 105 1,0 105 Lạm phát 10% 0% 100 10% 10 110 1,1 100 10% 50% 100 10% 10 105 1,1 95,5 Lãi suất thực cố định 10% 0% 100 21% 21 121 1,1 110 10% 50% 100 21% 21 110,5 1,1 100,5  Tình huống thứ nhất: không có lạm phát  Không có thuế , số túi xách là 110  Với đánh thuế 50% , chỉ mua 105 túi xách  Tình huống thứ hai: lạm phát bằng lãi suất danh nghĩa tức lãi suất thực bằng 0  Với lạm phát nhưng không có đánh thuế , mua được 100 túi xách.  Với lạm phát và thuế , mặc dù sức mua không thay đổi , đánh thuế vào tiền lời danh nghĩa thì chỉ mua được 95,5. Khi một cá nhân quyết định tiết kiệm họ quan tâm đến lãi suất thực hay sức mua của đồng tiền. Kết quả là ngân hàng và doanh nghiệp phải gia tăng lãi suất danh nghĩa để thu hút tiết kiệm.  Tình huống thứ ba: lãi suất danh nghĩa tăng vừa đủ bù đắp lạm phát, có nghĩa là lãi suất thực cố định (đến 21 %). Nếu không có đánh thuế, lạm phát sẽ không bào mòn sức mua của tiêt kiệm. Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 8 Vấn đề đặt ra là thuế đánh vào tiền lãi với lãi suất danh nghĩa danh nghĩa, chứ không phải là với lãi suất thực. Khi bị đánh thuế thì cô ta chỉ có thể mua được 100,5 túi khí, nhỏ hơn 105 túi khí trong tình huống 1 khi không có lạm phát. Bởi vì thuế đánh vào tiền lời danh nghĩa, nên ngân hàng cũng không thể hoàn toàn bù đắp được lạm phát. Trên thực tế, lạm phát tăng sẽ làm giảm thu nhập thực sau thuế từ tiết kiệm. II. Các mô hình tiết kiệm khác Trong mô hình tiêu chuẩn lựa chọn theo thời gian, chúng ta đã thấy lý do duy nhất để tiết kiệm là mong muốn ổn định tiêu dùng theo thời gian. Phần này, chúng ta xem các mô hình khác và một số dẫn chứng trong thực tế hiện nay. 2.1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro Ở Việt Nam hay ở nước ngoài, khi được hỏi về lý do tiết kiệm, câu trả lời nhận được nhiều nhất, bên cạnh việc tiết kiệm cho thời gian hưu trí, là việc để dành cho những “tình huống khẩn cấp” như: khi mất việc làm, gặp vấn đề về sức khỏe hay những cú sốc bất lợi về tài chính. Kết quả khảo sát này dẫn đến hình thành mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro. Cũng giống như việc sử dụng tiết kiệm để ổn định tiêu dùng theo thời gian, tiết kiệm cũng có thể được sử dụng để ổn định tiêu dùng trước sự thay đổi của thế giới hiện thực. Trong mô hình này, cá nhân phải đối mặt với những rủi ro từ những cú sốc bệnh tật (ví dụ như một cơn đau tim), thất nghiệp, ly dị... Mô hình này giả định rằng cá nhân không có khả năng vay mượn nếu họ gặp phải những cú sốc vì họ phải đối mặt với giới hạn thanh khoản (liquidity constrians), những rào cản khi vay mượn. Giới hạn thanh khoản có thể do bởi ngân hàng không muốn cho vay với khách hàng đang bệnh nặng hay là những khách hàng vừa mới mất việc làm. Kết quả là cá nhân phải tự mình để dành từ việc tiết kiệm phòng khi những cú sốc bất lợi xảy ra, do vậy cá nhân có thể ổn định tiêu dùng trong cuộc sống của mình.  Minh chứng về mô hình phòng ngừa rủi ro Một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm kiểm định mô hình phòng ngừa rủi ro, kết quả cho thấy khi sự bất trắc tăng lên sẽ dẫn đến tiết kiệm tăng, sự bất trắc giảm đi sẽ làm cho tiết kiệm giảm. Một số nghiên cứu khác lại cho thấy việc mở rộng các chương trình bảo hiểm xã hội nhằm làm giảm sự bất định thu nhập cũng sẽ làm giảm tiết kiệm, và Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 9 kết quả nhận được là phù hợp với quan điểm cho rằng tiết kiệm có động cơ từ việc phòng ngừa rủi ro. 2.2. Mô hình tự kiểm soát Một số ý kiến khác về quyết định tiết kiệm được xây dựng trên kiểu mô hình tự kiểm soát. Trong mô hình này, cá nhân sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa sự ưa thích có hại trong ngắn hạn (tôi cần hút thuốc hôm nay) và sự ưa thích có lợi trong dài hạn (ngày mai tôi sẽ bỏ thuốc lá). Vấn đề tự kiểm soát cũng có thể áp dụng với việc tiết kiệm. Sự ưa thích có lợi của cá nhân trong dài hạn là việc đảm bảo có đủ tiền tiết kiệm để ổn định tiêu dùng suốt đời, nhưng sự ưa thích bất lợi trong ngắn hạn có thể dẫn đến việc họ tiêu dùng toàn bộ thu nhập của mình và không tiết kiệm đủ cho giai đoạn tương lai. Trong mô hình này, yếu tố chủ yếu để xác định hành vi tiết kiệm là khả năng của cá nhân trong việc tìm ra cách thức tự mình tiết kiệm, để dành thu nhập ngoài phạm vi “tự thỏa mãn trong ngắn hạn”.  Minh chứng mô hình tự kiểm soát: Ngày nay có nhiều minh chứng về tính phù hợp của mô hình tiết kiệm tự kiểm soát. Cá nhân với vấn đề tự kiểm soát phải cần đến những công cụ có thể tin tưởng để giúp họ tự kiểm soát. Các công cụ này cũng phổ biến trong khía cạnh tiết kiệm. Minh chứng là việc tích lũy tài sản ở Mỹ, với đặc điểm rất lạ: cá nhân có tiết kiệm đáng kể ở những dạng rất khó tiếp cận (các tài khoản mua nhà hưu trí) nhưng lại tiết kiệm rất ít ở các dạng dễ tiếp cận hơn, như ở tài khoản phát hành séc. Khó hiểu hơn, rất nhiều người để tiền tiết kiệm dưới dạng khó tiếp cận như các tài khoản hưu trí với lãi suất khá bình thường (5% và thậm chí thấp hơn), trong khi đó đồng thời lại vay tiền từ thẻ tín dụng với lãi suất cao (10% và thậm chí cao hơn). Trong mô hình tiêu chuẩn, cá nhân sẽ tự làm cho mình tốt hơn bằng việc tiết kiệm ở mức ít hơn với lãi suất 5% nhằm không phải đi vay với lãi suất 10%. Thực tế này thực sự phù hợp với mô hình tự kiểm soát: người ta sẽ lo lắng về việc có tiền trong tay, bởi vì họ sẽ tiêu xài nó một cách nhanh chóng, nhưng nếu họ có công cụ có thể tin tưởng được để giữ tiền khỏi tầm tay thì tiền sẽ được tiết kiệm. Do vậy, cá nhân có thể thành công trong việc tiết kiệm ở dạng như bỏ tiền vào tài khoản hưu trí hay tài khoản mua nhà, nhưng họ không thể thành công khi tiết kiệm ở dạng mà họ có thể chạm tay vào tiền của mình. Cuối cùng, minh chứng rất thuyết phục về mô hinh tự kiểm soát là thử nghiệm của Richard Thaler và Shlomo Benartzi (2004). Hai nhà kinh tế ngày đưa ra kế hoạch tiết kiệm Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 10 hưu trí duy nhất dành cho người lao động ở một nhà máy quy mô vừa. Với kế hoạch “tiết kiệm nhiều hơn ngày mai”, người lao động cam kết giành một phần trong sự tăng lên của thu nhập tương lai để vào tiết kiệm hưu trí. Người lao động được quyền chọn lựa tiết kiệm theo cam kết sớm hơn, trước khi tiền lương mà họ được trả tăng lên nhằm làm cho quyết định này bớt khó khăn hơn. Khi người lao động tham gia, đóng góp của họ vào kế hoạch tiết kiệm tăng lên mỗi khi tiền lương mà họ nhận được tăng lên. Kế hoạch này không có gì hấp dẫn đối với người tiết kiệm dựa trên lý trí trong mô hình tiêu chuẩn về tiêu dùng theo thời gian. Họ có thể tiết kiệm tùy thích từ thu nhập, cho nên không cần thiết phải có sự cam kết trước theo một kế hoạch tiết kiệm cố định. Nói cách khác, dường như không có lý do gì để hạn chế hành vi từ cách làm này. Nếu một người lao động không có lý do gì để hạn chế hành vi từ cách làm này. Nếu một người lao động muốn chia sẽ một phần thu nhập tăng thêm trong tương lai, họ đơn giản sẽ làm được một khi thu nhập của họ tăng lên. Nhưng kế hoạch nói trên, chính là một điều hấp dẫn lớn đối với những người phải đối mặt với vấn đề tự kiểm soát, những người mong muốn giữ một phần trong thu nhập tăng thêm ở tương lai ngoài tầm tay nhằm hạn chế sự thỏa mãn bất lợi trong ngắn hạn. các cá nhân với vấn đề tự kiểm soát e ngại rằng nếu họ không cam kết tiết kiệm phần thu nhập tăng thêm từ bây giờ thì khi thu nhập thực sự tăng lên, họ sẽ chi tiêu hết vào thỏa mãn sở thích ngắn hạn không có lợi. Thực tế, khi kế hoạch tiết kiệm này được đưa ra, 78% số người lao động được mời đã quyết định tham gia và 80% số người tham gia vẫn còn tham gia kế hoạch sau bốn lần tăng lương. Cụ thể hơn, tỷ lệ tiết kiệm của những người tham gia kế hoạch này nhảy từ 3,5% lên mức 13,6% sau 40 tháng. Vấn đề tiết kiệm theo cam kết vốn dĩ vô ích trong mô hình tiêu chuẩn giờ đây lại tác động lớn đến hành vi tiết kiệm; một lần nữa phù hợp với quan điểm cho rằng người lao động phải đối mặt với vấn đề tự kiểm soát về hành vi tiết kiệm. III. Chính sách khuyến khích của thuế đối với tiết kiệm hưu trí 3.1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí 3.1.1. Trường hợp nghiên cứu điển hình- Mỹ Như phần trên đã trình bày, người lao động (và cả người chủ lao động) có hai mốc thời kỳ chính trong cuộc đời: (i) khoản thời gian lao động, là thời gian cá nhân đó có thu nhập cao hơn và (ii) khoản thời gian nghỉ hưu, là thời gian cá nhân đó có thu nhập thấp hơn hoặc trong một số trường hợp là không có thu nhập. Do đó, người lao động có xu Tiểu luận Phân Tích Chính Sách Thuế GVHD: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng NH-Nhóm 6-Đêm 4-K20 11 hướng tiết kiệm trong thời gian còn làm việc để có thể làm tăng thu nhập trong lúc hưu trí của họ. Tuy nhiên, nếu chính phủ đánh thuế trên tiền lãi phát sinh có thể ảnh hưởng đến quyết định của cá nhân đó trong việc giảm đi các khoản tiết kiệm này. Từ đó, các quốc gia trên thế giới thường đưa ra những chính sách nhằm khuyến khích người dân không thay đổi các quyết định tiết kiệm của mình vì tính chất đặc biệt của những khoản tiết kiệm này so với các loại tiết kiệm thông thường khác (do chúng có những tác động có thể ảnh hưởng đến nỗ lực ổn định về mặt xã hội của chính phủ quốc gia đó). Điển hình ở Mỹ, các nhà chính sách của Mỹ đã đưa ra những tài khoản và quỹ đặc biệt được thiết kế nhằm trợ cấp về thuế đối với tiết kiệm hưu trí của người dân. Đặc điểm chung của các chính sách trợ cấp này là tất cả tiền lãi phát sinh từ các tài khoản, quỹ này đều không phải chịu thuế. Thay vào đó, người chủ tài khoản (người lao động) sẽ phải trả thuế lúc anh ta nhận tiền khi về hưu như là những khoản thu nhập thường xuyên.  Trợ cấp thuế đối với tiền hưu do người sử dụng lao động trả. Đây là một kế hoạch hưu trí mà các công ty chịu trách nhiệm về sự đóng góp vào quỹ hưu bổng do công ty quản trị. Đây là một phần của phúc lợi (benefits) do công ty cung cấp cho nhân viên, và đây cũng là một phương thức giữ chân nhân viên cho đến ngày về hưu. Trong trường hợp này, nhân viên có thể không phải đóng góp gì cả hay chỉ đóng góp một phần, do đó gánh nặng tiết kiệm sẽ được giảm đi. Tương tự như bảo hiểm y tế do người sử dụng lao động đóng góp thì  Tất cả các khoản tiền góp hình thành nên quỹ hưu trí đều không phải chịu thuế khi tính thuế thu nhập đối với người lao động.  Tiền lãi phát sinh từ sự tích luỹ các khoản tiết kiệm hưu trí cũng không phải chịu thuế.  Người lao động phải nộp thuế đối với tiết kiệm hưu trí như là