Tiểu luận Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh

Cùng với nhịp độ phát triển kinh tế toàn cầu, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ta cũng đang từng ngày gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên, đó cũng là khởi nguồn gây ra một vấn đề nan giải cho các doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung: Trách nhiệm đối với người lao động, môi trường, cũng như những gì mà guồng quay kinh tế khổng lồ ấy ảnh hưởng tới trong quá trình phát triển của nó. Những vấn đề đó đang ngày càng trở nên bức thiết, và cái giá phải trả sẽ là rất đắt nếu chúng ta không có hướng giải quyết một cách triệt để và kịp thời. Trách nhiệm xã hội (TNXH) của doanh nghiệp đang là đề tài nóng bỏng hiện nay, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu về nó một cách đầy đủ, đúng đắn, và con số những chủ thể kinh doanh có thể thực hiện các quy định bảo đảm TNXH lại càng ít hơn nữa. “Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh” cũng là chủ đề mà nhóm chúng em chọn làm tiểu luận lần này, vừa để tìm hiểu thêm kiến thức cho chính bản thân mình, vừa hy vọng có thể giúp người đọc hiểu rõ hơn về khái niệm cũng như thực trạng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay một cách đúng đắn nhất, đồng thời đưa ra một số giải pháp tháo gỡ những khó khăn đang gặp phải cho vấn đề này.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 10786 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3 Khái niệm trách nhiệm xã hội 3 Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội 3 Phát triển bền vững – mục tiêu thực hiện TNXH của doanh nghiệp 5 Đạo đức và trách nhiệm xã hội 6 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC THỰC HIỆN TNXH TẠI VIỆT NAM 8 Tình hình chung 8 Các công cụ quản lý 9 Một số thành công bước đầu 10 Những tồn tại còn nổi cộm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục 10 Một số ví dụ 18 LỜI KẾT 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 LỜI MỞ ĐẦU Cùng với nhịp độ phát triển kinh tế toàn cầu, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ta cũng đang từng ngày gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên, đó cũng là khởi nguồn gây ra một vấn đề nan giải cho các doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung: Trách nhiệm đối với người lao động, môi trường, cũng như những gì mà guồng quay kinh tế khổng lồ ấy ảnh hưởng tới trong quá trình phát triển của nó. Những vấn đề đó đang ngày càng trở nên bức thiết, và cái giá phải trả sẽ là rất đắt nếu chúng ta không có hướng giải quyết một cách triệt để và kịp thời. Trách nhiệm xã hội (TNXH) của doanh nghiệp đang là đề tài nóng bỏng hiện nay, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu về nó một cách đầy đủ, đúng đắn, và con số những chủ thể kinh doanh có thể thực hiện các quy định bảo đảm TNXH lại càng ít hơn nữa. “Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh” cũng là chủ đề mà nhóm chúng em chọn làm tiểu luận lần này, vừa để tìm hiểu thêm kiến thức cho chính bản thân mình, vừa hy vọng có thể giúp người đọc hiểu rõ hơn về khái niệm cũng như thực trạng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay một cách đúng đắn nhất, đồng thời đưa ra một số giải pháp tháo gỡ những khó khăn đang gặp phải cho vấn đề này. Dù đã cố gắng để hoàn thành tốt nhất có thể nhưng do vấn đề rộng và kiến thức có hạn nên bài tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp chỉ dạy của thầy để bài làm được hoàn thiện tốt hơn và có giá trị tham khảo. Chúng em xin cám ơn! Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm TNXH của doanh nghiệp: TNXH của doanh nghiệp : Là sự tự cam kết của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và thực hiện hệ thống các quy định về quản lý của doanh nghiệp, bằng phương pháp quản lý thích hợp trên cơ sở tuân thủ pháp luật hiện hành, nhằm kết hợp hài hoà lợi ích của doanh nghiệp, người lao động, Nhà Nước và xã hội. Là việc ứng xử trong quan hệ lao động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích của người lao động, doanh nghiệp, khách hàng và cộng đồng; bảo vệ người tiêu dùng và tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm đạt được mục tiêu chung là phát triển bền vững. 2. Các khía cạnh của TNXH :  TNXH của doanh nghiệp là cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững; hợp tác cùng người lao động, gia đình họ, cộng đồng và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ sao cho vừa tốt cho doanh nghiệp vừa ích lợi cho phát triển. Nếu là doanh nghiệp sản xuất xe hơi, phải tính toán được ngay cả năng lượng mà cơ sở tiêu thụ và tìm cách giảm thiểu; là doanh nghiệp sản xuất giấy, phải xem chất thải ra bao nhiêu và tìm cách xử lý ... Vì vậy ngày nay một doanh nghiệp có TNXH liên quan đến mọi khía cạnh vận hành của nó: kinh tế, pháp lý, đạo đức, môi trường .... Khía cạnh kinh tế : Khía cạnh kinh tế trong TNXH của một doanh nghiệp là phải sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá có thể duy trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với các nhà đầu tư; tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ thống xã hội. Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp phần vào tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo công ăn việc làm với mức thù lao xứng đáng, cơ hội việc làm như nhau, cơ hội phát triển nghề và chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi trường lao động an toàn, vệ sinh và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân ở nơi làm việc. Đối với người tiêu dùng, ngoài trách nhiệm chủ yếu là cung cấp hàng hoá và dịch vụ, doanh nghiệp còn phải quan tâm đến vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm (quảng cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh. Khía cạnh kinh tế trong TNXH là cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong kinh doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý. Một ví dụ điển hình: Vào những năm 1990, điều kiện lao động khắc nghiệt tại các nhà máy của Nike ở Đông Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đã bị nhiều tổ chức phi chính phủ và phương tiện truyền thông lên án kịch liệt. Từ đó đã dấy lên phong trào tẩy chay sản phẩm Nike tại các thị trường chính của tập đoàn ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuy phong trào tẩy chay không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, nhưng Nike đã lập tức đưa ra những chương trình xây dựng lại hình ảnh. Hiện tại, bên cạnh vô số những chương trình TNXH tại thị trường tiêu thụ của Nike ở các nước phát triển và đang phát triển, Nike đã thành lập một hệ thống các tổ chức giám sát độc lập nhằm kiểm tra lao động tại các nhà máy ở vùng châu Á. Vì vậy , để đảm bảo lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp ý thức rằng không thể phát triển mà phớt lờ sức ép của dư luận vốn vừa là khách hàng, công nhân viên hoặc cả các đối tác, chủ đầu tư trong nước lẫn quốc tế. Các nhà quản lý doanh nghiệp quốc tế không những cần biết cách làm tăng tối đa lợi nhuận cho công ty, mà còn phải ý thức rất rõ được việc tạo nên những điều kiện để duy trì và phát triển bền vững những lợi ích kinh tế đó. Khía cạnh pháp lý Khía cạnh pháp lý trong TNXH của một doanh nghiệp là doanh nghiệp đó phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối với các bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh: Điều tiết cạnh tranh. Bảo vệ người tiêu dùng. Bảo vệ môi trường. An toàn và bình đẳng. Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái. Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình. Khía cạnh đạo đức Khía cạnh đạo đức trong TNXH của một doanh nghiệp là những hành vi và hoạt động mà các thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội mong đợi từ phía các doanh nghiệp dù cho chúng không được viết thành luật. Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể hiện thông qua những nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ mệnh và chiến lược của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và giá trị đạo đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành viên trong công ty và với các bên hữu quan. Khía cạnh môi trường :  Môi trường sống trong lành là nhu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Tuy nhiên, cứ nhìn vào dòng nước đen và mùi nồng của sông Tô Lịch hay bầu không khí đầy bụi và khói của Hà Nội. Chúng ta sẽ thấy nhu cầu đầu tiên ấy đang bị hy sinh cho những nhu cầu vật chất khác. Phần lớn các chất thải không thể phân hủy là do hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo ra. Vậy TNXH đầu tiên của các doanh nghiệp là không kinh doanh trên sự tổn hại của môi trường. 3. Phát triển bền vững- mục tiêu thực hiện TNXH của các doanh nghiệp: Khái niệm phát triển bền vững: Phát triển bền vững là một khái niệm tương đối rộng và có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, một định nghĩa chung nhất đã được đưa ra cho khái niệm phát triển bền vững trong Báo cáo Brundtland như sau: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thế hệ tương lai” Nội dung của chiến lược phát triển bền vững: Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế- xã hội- môi trường. Phát triển bền vững, về cơ bản bao hàm 3 phương diện: Môi trường bền vững, kinh tế bền vững và xã hội bền vững. Môi trường trong phát triển bền vững: đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên này ở một giới hạn nhất định, cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất Xã hội của phát triển bền vững: cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Kinh tế bền vững: đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh , sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người. 4. Đạo đức kinh doanh và TNXH: Phân biệt đạo đức kinh doanh và TNXH của doanh nghiệp: Khái niệm “đạo đức kinh doanh” và “TNXH” thường hay bị sử dụng lẫn lộn. Trên thực tế, khái niệm TNXH được nhiều người sử dụng như là một biểu hiện của đạo đức kinh doanh. Tuy nhiên, hai khái niệm này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.    Nếu TNXH là những nghĩa vụ một doanh nghiệp hay cá nhân phải thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác động tích cực và giảm tối thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội thì đạo đức kinh doanh lại bao gồm những quy định và các tiêu chuẩn chỉ đạo hành vi trong thế giới kinh doanh. TNXH được xem như một cam kết với xã hội trong khi đạo đức kinh doanh lại bao gồm các quy định rõ ràng về các phẩm chất đạo đức của tổ chức kinh doanh, mà chính những phẩm chất này sẽ chỉ đạo quá trình đưa ra quyết định của những tổ chức ấy. Nếu đạo đức kinh doanh liên quan đến các nguyên tắc và quy định chỉ đạo những quyết định của cá nhân và tổ chức thì TNXH quan tâm tới hậu quả của những quyết định của tổ chức tới xã hội. Nếu đạo đức kinh doanh thể hiện những mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên trong thì TNXH thể hiện những mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên ngoài. Mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và TNXH của doanh nghiệp: Đạo đức và TNXH là những vấn đề không thể thiếu trong kinh doanh. Rất nhiều cơ hội và lợi ích chiến lược sẽ đến khi doanh nghiệp xem đạo đức và TNXH là trọng tâm của các hoạt động kinh doanh. Sự tồn vong của doanh nghiệp không chỉ đến từ chất lượng của bản thân các sản phẩm - dịch vụ cung ứng mà còn chủ yếu từ phong cách kinh doanh của doanh nghiệp. Hành vi kinh doanh thể hiện tư cách của doanh nghiệp, và chính tư cách ấy tác động trực tiếp đến thành bại của tổ chức. Đạo đức kinh doanh, trong chiều hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược trong việc phát triển doanh nghiệp. Xem đạo đức và TNXH là một phần thiết yếu của chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp cũng sẽ cảm thấy tự nguyện và chủ động hơn trong việc thực hiện. Khi đó, những vấn đề này không còn là môt gánh nặng hay điều bắt buộc mà là nguồn và cơ sở của những thành công. Rất nhiều cơ hội và lợi ích chiến lược sẽ đến khi doanh nghiệp xem đạo đức và TNXH là trọng tâm của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tôn trọng đạo đức và TNXH của doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích chung cho nhân viên, khách hàng, đối tác và cộng đồng. Đây là những bộ phận quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Khi thực hiện tốt đạo đức và TNXH, doanh nghiệp sẽ nhận được sự ủng hộ trung thành và nhiệt tình của nhân viên, khách hàng và các đối tác này. Đây chính là điều kiện cơ bản nhất của mọi thành công. Ngày nay, đề làm cho khách hàng và cộng đồng thương yêu thương hiệu của công ty, các doanh nghiệp ngày càng ít giới thiệu công ty qua những sản phẩm hay dịch vụ, mà chỉ giới thiệu các thành tích trong việc thực hiện đạo đức và TNXH trong kinh doanh bằng cách nêu lên những nỗ lực của công ty để trở thành ông chủ tốt, đối tác tốt, công dân tốt và là người bảo vệ môi trường. Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC THỰC HIỆN TNXH Ở VIỆT NAM Tình hình chung Trước đây, yếu tố trụ cột gắn liền với mục tiêu của mọi doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, đều là yếu tố kinh tế, lợi nhuận. Nhưng ngày nay, các yếu tố cấu thành lợi nhuận không chỉ là yếu tố kinh tế, mà còn phải kể đến những yếu tố bên ngoài như môi trường, xã hội... Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, TNXH không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp có thể thực hiện TNXH của mình bằng cách đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử (Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Những người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp không thực hiện TNXH có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế... Theo đà phát triển chung, Việt Nam những năm gần đây cũng đã có sự tiếp cận ban đầu đối với khái niệm TNXH, đạt được một số bước tiến quan trọng trong việc đưa sự quan tâm của công chúng cũng như của các nhà chức trách tới vấn đề này lên một mức độ cao hơn. Một cách chính thức, TNXH được giới thiệu vào nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Các công ty này thường xây dựng các bộ quy tắc ứng xử và chuẩn mực văn hóa kinh doanh có tính phổ quát để có thể áp dụng trên nhiều địa bàn thị trường khác nhau. Do đó, các nội dung TNXH được các công ty nước ngoài thực hiện có bài bản và đạt hiệu quả cao. Có thể lấy một số ví dụ nổi bật như chương trình “Tôi yêu Việt Nam” của công ty Honda- VietNam; chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ em tại các tỉnh miền núi của công ty Unilever; chương trình đào tạo tin học Topic64 của Microsoft, Qualcomm và HP; chương trình hỗ trợ phẫu thuật dị tật tim bẩm sinh và ủng hộ nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ của VinaCapital, Samsung; chương trình khôi phục thị lực cho trẻ em nghèo của Western Union… Đối với các doanh nghiệp trong nước, một khi Việt Nam đã tham gia WTO có nghĩa là chúng ta đã tham gia vào một sân chơi quốc tế. Ở đó, tất cả các vấn đề phát triển thương mại đều phải gắn liền với những "luật chơi" mà nếu thành viên nào không thực hiện sẽ bị loại ra khỏi "cuộc chơi" ấy ngay lập tức. Chẳng hạn muốn thâm nhập thị trường đang nhắm đến, các Doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng được những yêu cầu về quan hệ lao động, môi trường, sức khoẻ, an toàn và bảo vệ môi trường... Thậm chí các đối tác thương mại sẽ tẩy chay sản phẩm hàng hoá của nước thành viên nào mà DN sản xuất ra sản phẩm đó không thực hiện đúng chuẩn mực về các TNXH. Các công ty xuất khẩu có lẽ là đối tượng đầu tiên tiếp cận với TNXH. Hầu hết các đơn hàng từ châu Âu- Mỹ- Nhật đều đòi hỏi các doanh nghiệp may mặc, giày dép phải áp dụng chế độ lao động tốt (tiêu chuẩn SA8000) hay đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (đối với các xí nghiệp thủy hải sản)… Ngoài ra, nhiều công ty tư nhân trong nước cũng đã nắm bắt vấn đề này khá nhạy bén. Một số công ty đã chủ động thực hiện và tạo được hình ảnh tốt đối với công chúng như các tập đoàn Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, ACB, Sacombank, Kinh Đô… Các công cụ quản lý Trên thực tế, không phải đến bây giờ, vấn đề TNXH của doanh nghiệp mới được đặt ra ở nước ta mà trái lại, ngay trong thời bao cấp, người ta cũng đã nói nhiều về TNXH của các xí nghiệp đối với nhà nước và người lao động, cũng như đối với cộng đồng nói chung. Nhưng trong những năm gần đây, TNXH được hiểu một cách rộng rãi hơn, không chỉ từ phương diện đạo đức, mà cả từ phương diện pháp lý. Những tác hại về môi trường do một số doanh nghiệp gây ra trong thời gian qua không những bị dư luận lên án về phương diện đạo đức, mà quan trọng hơn là cần phải được xử lý nghiêm khắc về phương diện pháp lý. Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động, chúng ta có Bộ Luật lao động năm 1994, được sửa đổi 2 lần vào năm 2002 (có nội dung thỏa ước lao động, làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội, trợ cấp, sa thải lao động) và năm 2006 (về nội dung tranh chấp lao động và đình công). Trong lĩnh vực môi trường, hoạt động thực hiện TNXH ở nước ta có bước tiến lớn sau khi Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được ban hành thay thế cho luật cũ năm 1994 hầu như không có hiệu lực. Tiếp theo, một loạt nghị định đã được ban hành kịp thời để hướng dẫn luật, đưa nội dung bảo vệ môi trường vào thủ tục đầu tư, thể chế hóa công tác quản lý Nhà nước về vật liệu xây dựng, thu phí nước thải công nghiệp, khai thác khoáng sản, chất thải rắn… Về bộ máy quản l‎ý Nhà nước về bảo vệ môi trường, chúng ta có Cục và Chi cục bảo vệ môi trường, trực thuộc Trung ương và các địa phương. Đáng chú ‎, sau 1 năm kể từ khi Luật được ban hành, cuối năm 2006, Bộ Công an đã thành lập Cục cảnh sát môi trường (C36) và Phòng cảnh sát môi trường (PC36) ở các tỉnh, thành. Đến nay, cơ quan này đã điều tra và phát hiện hàng trăm vụ ô nhiễm gây tiếng vang trong dư luận. Để khuyến khích các doanh nghiệp tự thực hiện, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải thưởng “TNXH của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH của mình trong bối cảnh hội nhập. Một số thành công bước đầu Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, TNXH của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ TNXH sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện TNXH đã thấy được những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình TNXH của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao dộng cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/ năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện TNXH trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho Nhà nước, đã đăng ký thực hiện TNXH dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động. 4. Những tồn tại còn nổi cộm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, vấn đề TNXH tại Việt Nam còn khá nhiều bất cập. Nhận thức của người dân về TNXH còn kém; quản l‎ý nhà nước lỏng lẻo; văn bản pháp luật không sát thực t
Luận văn liên quan