Tiểu luận Triết học Hêghen và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại

Vào thời của mình, F.Enghen đã từng nói:”Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao khoa học thì không thểkhông có tưduy lý luận”, nhưng tưduy lý luận ấy “cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộtriết học thời trước” vì “triết học là sựtổng kết lịch sửtư duy”(Hêghen). Mặt khác vì lịch sửphát triển của tưduy được tổng kết trong lịch sử triết học nên chính lịch sửtriết học là cơsở đểhình thành phép biện chứng. Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới vềchất trong lịch sửtư tưởng Tây Âu và thếgiới cuối thếkỷXVIII- đầu thếkỷXIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳtriết học cổ điển phương Tây đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại. Triết học cổ điển Đức trởthành một trong ba nguồn gốc hình thành chủnghĩa Mác – nguồn gốc triết học. Triết học Cantơkhởi xướng một trào lưu triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm đểtiếp đó, PhíchtơSenling tiếp tục tìm tòi mởrộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệthống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơbắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủnghĩa duy vật nhân bản của ông. Triết học Hêghen có vịtrí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Hêghen được coi là người sáng lập ra chủnghĩa duy tâm Đức. Hêghen là người có ảnh hưởng tới vô sốcác nhân vật, bao gồm cảnhững người hâm mộông (Bauer, Marx, Bradley, Sartre, Küng) lẫn những người nói xấu ông (Schelling, Kierkegaard, Schopenhauer, Nietzsche, Heidegger, Russell). Ông bàn luận vềmối quan hệgiữa tự nhiên và tựdo, tính nội tại và sựsiêu nghiệm, vềsựthống nhất của hai mặt mà không phải loại trừhay giảm bớt thái cực nào. Những khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông là vềlogic phân tích, biện chứng, chủnghĩa duy tâm tuyệt đối, tinh thần, biện chứng về"ông chủ/nô lệ", vềcuộc sống đạo đức và tầm quan trọng của lịch sử. Bài tiểu luận: Triết học Hêghen 3 Hêghen bịkết tội là cha đẻcủa chủnghĩa phát xít, dù nhiều người ủng hộông lại không đồng ý với quan điểm này. Dù thếnào đi nữa thì Hêghen vẫn là người có công lớn trong việc phát triển triết học thếgiới vì ông là người đầu tiên sửdung phép duy vật biện chứng một cách có hệthống, chính nhờvào phép duy vật biện chứng của Hêghen mà Marx đã có những thành công rực rỡtrong việc phát triển lý luận chủnghĩa xã hội khoa học, là hạt nhân của chủnghĩa Max-Lênin ngày nay. Chính vì sự đóng góp to lớn của ông, nhiều triết gia đã nghiên cứu và bình phẩm vềtriết học của ông. Đó là những công trình lớn không phải ai cũng hiểu rõ ràng được. Qua bài tiểu luận này, em muốn khái quát lại hệthống triết học của Hêghen và nêu những nhận định của mình vềsự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại. Do bài làm không tránh khỏi thiếu sót, cũng nhưkiến thức hiểu biết còn hạn hẹp và tài liệu không đầy đủ, em mong được sựgóp ý, chỉnh sửa và bổsung của thầy đểbài làm được tốt hơn.

pdf25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3581 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triết học Hêghen và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA SAU ĐẠI HỌC ***** Bài tiểu luận Triết học Hêghen và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại   Giáo viên  :  TS Bùi Văn Mưa    Môn học  :  Triết học    Lớp  :  QTKD K19 ĐÊM 1                          Học viên  :  Nguyễn Thanh Hào   Tháng 2‐2010  Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   Mục lục  A. Lời nói đầu ............................................................................................................. 2  B. Nội dung ................................................................................................................. 4  I.   Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học và đặc điểm của triết học cổ điển Đức .. 4  1.  Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học ............................................................. 4  2.  Đặc điểm của triết học cổ điển Đức .............................................................. 5  II.  Tiểu sử của Hêghen .............................................................................................. 6  III. Triết học Hêghen ................................................................................................. 6  1.  Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen ......................................................... 6  2.  Bốn luận điểm nền tảng của hệ thống triết học Hêghen ............................... 7  3.  Khoa học lôgích ............................................................................................ 9  4.  Triết học tự nhiên ........................................................................................ 15  5.  Triết học tinh thần ....................................................................................... 16  IV.  Ảnh hưởng của triết học Hêghen đến đời sống văn hóa tinh thần thời đại 19  C. Kết luận ................................................................................................................ 22  1 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   A. Lời nói đầu  Vào thời của mình, F.Enghen đã từng nói:”Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”, nhưng tư duy lý luận ấy “cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” vì “triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy”(Hêghen). Mặt khác vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết trong lịch sử triết học nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng. Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại. Triết học cổ điển Đức trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác – nguồn gốc triết học. Triết học Cantơ khởi xướng một trào lưu triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Senling tiếp tục tìm tòi mở rộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơbắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông. Triết học Hêghen có vị trí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Hêghen được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức. Hêghen là người có ảnh hưởng tới vô số các nhân vật, bao gồm cả những người hâm mộ ông (Bauer, Marx, Bradley, Sartre, Küng) lẫn những người nói xấu ông (Schelling, Kierkegaard, Schopenhauer, Nietzsche, Heidegger, Russell). Ông bàn luận về mối quan hệ giữa tự nhiên và tự do, tính nội tại và sự siêu nghiệm, về sự thống nhất của hai mặt mà không phải loại trừ hay giảm bớt thái cực nào. Những khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông là về logic phân tích, biện chứng, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối, tinh thần, biện chứng về "ông chủ/nô lệ", về cuộc sống đạo đức và tầm quan trọng của lịch sử. 2 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   Hêghen bị kết tội là cha đẻ của chủ nghĩa phát xít, dù nhiều người ủng hộ ông lại không đồng ý với quan điểm này. Dù thế nào đi nữa thì Hêghen vẫn là người có công lớn trong việc phát triển triết học thế giới vì ông là người đầu tiên sử dung phép duy vật biện chứng một cách có hệ thống, chính nhờ vào phép duy vật biện chứng của Hêghen mà Marx đã có những thành công rực rỡ trong việc phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, là hạt nhân của chủ nghĩa Max-Lênin ngày nay. Chính vì sự đóng góp to lớn của ông, nhiều triết gia đã nghiên cứu và bình phẩm về triết học của ông. Đó là những công trình lớn không phải ai cũng hiểu rõ ràng được. Qua bài tiểu luận này, em muốn khái quát lại hệ thống triết học của Hêghen và nêu những nhận định của mình về sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại. Do bài làm không tránh khỏi thiếu sót, cũng như kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp và tài liệu không đầy đủ, em mong được sự góp ý, chỉnh sửa và bổ sung của thầy để bài làm được tốt hơn. 3 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   B. Nội dung  I. Điều  kiện  kinh  tế ­ xã  hội,  khoa  học  và đặc điểm  của  triết  học  cổ  điển Đức  1. Điều kiện kinh tế ­ xã hội, khoa học  Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước. Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của 4 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo... Những thành tựu đó chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó. 2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức  Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học của Cantơ và Hêghen. Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới. Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù của Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ điển Đức. Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học. 5 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   II. Tiểu sử của Hêghen Hêghen (Friedrich Hégel, 1770 - 1831) sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở thành phố Stuttgart. Hồi còn trẻ theo học trường đại học Tubingue. Sau khi tốt nghiệp ông làm giáo sư dạy tư trong các gia đình, làm hiệu trưởng trường trung học Nuremberg, rồi làm giáo sư trường đại học Heldeberg. Do ảnh hưởng bởi Senlinh mà Hêghen say sưa nghiên cứu triết học, và ông trở thành nhà triết học - bác học vĩ đại nhất, là một nhà biện chứng lỗi lạc, nội dung triết học bao quát nhiều lĩnh vực. Các tác phẩm chính của ông là “Hiện tượng luận tinh thần” (1807), “Khoa học logic” (1812-1814), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” (1817), ... III. Triết học Hêghen  1. Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen Triết học Hêghen là hệ thống triết học - “khoa học của mọi khoa học” đồ sộ nhất, phức tạp nhất, cuối cùng trong lịch sử. Hệ thống triết học của Hêghen được xây dựng dựa trên bốn luận điểm nền tảng, được trình bày trong cuốn “Hiện tượng luận tinh thần” là: Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Từ bốn luận điểm này, Hêghen đã thoát khỏi hệ thống triết học Senlinh và xây dựng hệ thống triết học mới của mình. Hệ thống triết học của ông gồm ba phần: - Lôgic học, đây là học thuyết về các quy luật phổ biến của vận động và phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi dạng tồn tại. Lôgic học bao gồm ba bộ phận: Tồn tại, bản chất, khái niệm. 6 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   - Triết học về tự nhiên, đây là học thuyết về sự phát triển của giới tự nhiên dưới hình thức duy tâm. Triết học tự nhiên bao gồm cả ba bộ phận: Thuyết máy móc, thuyết hóa học, thuyết hữu cơ. - Triết học về tinh thần, đây là học thuyết về lịch sử của con người và sự nhận thức của con người, nguồn gốc tạo thành mọi dạng tồn tại. Phần này được chia thành ba bộ phận: Tinh thần chủ quan, tinh thần khách quan, tinh thần tuyệt đối. 2. Bốn luận điểm nền tảng của hệ thống triết học Hêghen  Bốn luận điểm nền tảng của hệ thống triết học Hêghen được trình bày trong tác phẩm “hiện tượng luận tinh thần” như sau: Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối chứ không phải cái Tuyệt đối (Senlinh) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối là sự hợp nhất giữa thực thể - giới tự nhiên(Xpinôda) và cái Tôi tuyệt đối (Phíchtơ), là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là Đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Con người chỉ là một sản phẩm của quá trình vận động phát triển tự thân của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người, tức là lịch sử nhân loại chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó nhận thức chính bản thân mình và quay trở về với chính mình. Theo Hêghen, tư duy lôgích chứ không phải trực giác nghệ thuật (Senlinh) là hình thức thể hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Phát triển được Hêghen hiểu như một chỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó cái mới liên tục thay thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Sự phát triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đềÆphản đềÆhợp đề”. Đó cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh thần, giữa khách thể và chủ thể… trong bản thân ý niệm tuyệt đối. 7 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Hêghen coi ý thức con người là sản phẩm của lịch sử nhân loại, còn lịch sử nhân loại là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao phát triển ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Lịch sử nhân loại có được nhờ vào lịch sử cá nhân (hoạt động có ý thức của mỗi cá nhân cụ thể) nhưng nó lại là nền tảng quy định ý thức & họat động có ý thức của họ. Ý thức cá nhân là sự khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua. Ý thức nhân loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của lịch sử, là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Hêghen thừa nhận có ba hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Trong đó, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm tuyệt đối. Theo ông, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi thời đại lại có một học thuyết triết học cho riêng mình. Học thuyết này là tinh hoa tinh thần của thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó đều là sự chắt lọc, kết tinh, khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học. Triết học và lịch sử triết học thống nhất với nhau như sự thống nhất giữa cái lôgích và cái lịch sử. Vì vậy, triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm này thì triết học Hêghen – khoa học về ý niệm tuyệt đối, được chia làm ba bộ phận là khoa học lôgích, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với ba giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác của nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tha hóa quay về với nó. Như vậy, thông qua tác phẩm “hiện tượng luận tinh thần”, ta thấy Hêghen đã thoát khỏi hệ thống triết học Senlinh, và định hướng cho một hệ thống triết học mới 8 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   của riêng ông. Hệ thống triết học mới này được ông trình bày chi tiết trong bộ “bách khoa toàn thư các khoa học triết học” bao gồm ba quyển là “khoa học lôgích”, “triết học tự nhiên” và “triết học tinh thần”. 3. Khoa học lôgích  Là tác phẩm quan trọng nhất của hệ thống triết học Hêghen, khoa học lôgích nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ thống. Khi vạch ra những hạn chế của lôgích học cũ là chỉ nghiên cứu tư duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được ranh giới giữa lôgích học với các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên những phạm trù bất động, tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó…, Hêghen khởi thảo một lôgích học mới giúp vạch ra bản chất đích thực của tư duy, và đóng vai trò như một phương pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa học. 3.1  Lôgích là gì? Lôgích học là khoa học về phạm trù và quy luật của tư duy thuần túy, tức ý niệm tuyệt đối trong chính nó hay Thượng đế. Lôgích học là sự thể hiện Thượng đế trong bản chất vĩnh hằng của mình trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu hạn khác, trong đó có tư duy con người. Tư duy con người chỉ là một giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, qua đó ý niệm tuyệt đối có khả năng ý thức được bản thân mình. Khi xác định bản tính khách quan đó của tư duy, Hêghen coi giới tự nhiên chỉ là tư duy khách quan vô thức – tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật, để phân biệt với tư duy con người là tư duy khách quan có ý thức. Tóm lại, theo Hêghen, trong tư duy mọi cái đối lập (vật chất – tinh thần, khách thể - chủ thể, tư tưởng – hiện thực…) đều thống nhất. Lôgích học nghiên cứu tư duy như thế phải là một hệ thống siêu hình học. Lôgích học – Siêu hình học của Hêghen 9 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   được xây đựng dựa trên luận điểm “Cái gì hợp lý thì hiện thực, cái gì hiện thực thì hợp lý”. Trên bình diện triết học, luận điểm này tiếp tục khẳng định sự tồn tại của ý niệm tuyệt đối, khẳng định các phạm trù lôgích không chỉ là hình thức chủ quan mà còn thể hiện cả bản chất, nội dung khách quan, và triết lý không phải là điều hoang tưởng; đồng thời nó cũng khẳng định sự thống nhất giữa tư tưởng và hiện thực, tư duy và tồn tại… là một quá trình phát triển biện chứng. Hiện thực ở đây là tồn tại trong tính tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển, chứ không phải là hiện thực sơ cứng, không phải là tồn tại nói chung. Khi tư duy là một phạm trù như thế, thì mọi phạm trù, quy luật của nó cũng sinh động, uyển chuyển, liên hệ, chuyển hóa, vận động, phát triển theo các quy luật biện chứng. Vậy,phép biện chứng phải là một linh hồn uyển chuyển của lôgích học; và Lôgích học là một cơ thể sống động, chứ không phải là tổng những phạm trù sơ cứng. Do là một cơ thể sống động nên lôgích học luôn đào thải những phạm trù không thể hiện bản chất sống động của tư duy, đồng thời trang bị cho con người một phong cách tư duy biện chứng để khám phá ra chân lý, để đi đến tự do. 3.2   Những nguyên tắc để xây dựng lôgích học Tư tưởng xuyên suốt để xây dựng lôgích học là nghịch lý về sự phát triển. Nghịch lý này nói rằng, phát triển là quá trình vận động tiến lên phía trước, nhưng nó cũng chính là sự quay trở về điểm khởi đầu. Tư tưởng đồng nhất cái khởi đầu và cái cuối cùng của hệ thống phát triển được Hêghen hiểu: Cái khởi đầu là cái cuối cùng (của hệ thống phát triển) dưới dạng tiềm tàng. Cái cuối cùng chính là cái khởi đầu (của hệ thống phát triển) đã được khai triển đầy đủ. Vì vậy, việc xác định cái đầu là có ý nghĩa rất quan trọng. Do nhận thức điều này mà cái khởi đầu đã được Hêghen xác định dựa trên một loạt các nguyên tắc sau đây: 10 Bài tiểu luận: Triết học Hêghen   Một là, nguyên tắc về tính khách quan đòi hỏi cái khởi đầu phải là cái khách quan , nghĩa là nó được xác định không dựa vào sự ưa thích của nhà nghiên cứu. Hai là, nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể trong tư duy, từ đơn giản đến phức tạp đòi hỏi cái khởi đầu phải là cái đơn giản nhất, trừu tượng nhất, để phù hợp với xu thế phát triển tiến lên của quá trình nhận thức. Ba là, nguyên tắc mâu thuẫn đòi hỏi cái khởi đầu phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống; bởi vì, nếu không chứa mâu thuẫn cơ bản thì cái khởi đầu không thể phát triển thành hệ thống, và cái cuối cùng không phải là cái khởi đầu được khai triển đầy đủ. Bốn là, nguyên tắc thống nhất tính lôgích với tính lịch sử đòi hỏi cái khởi đầu vừa là cái lịch sử đầu tiên vừa là cái lôgích tất yếu; bởi vì, phát triển không chỉ xảy ra theo trình tự thời gian mà còn là quá trình kế thừa, vượt bỏ những cái ngẫu nhiên để liên tục tiến lên. 3.3  Kết cấu của khoa học lôgích. Phép biện chứng duy tâm Tác phẩm khoa học lôgích được Hêghen xây dựng trên các nguyên tắc trên. Qua tác phẩm này Hêghen cố vạch rõ linh hồn uyển chuyển của lôgích học – phép biện chứng. Khoa học lôgích của ông bao gồm ba phần nghiên cứu 1 trong 3 giai đoạn tương ứng của tư duy thuần túy trong chính nó. Đó là học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm. Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa lượng và chất. Những thay đổi liên tục về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi gián đoạn về chất và ngược lại. Sự quy định này nói lên cách thức tồn tại của sự vật (khái niệm). Theo Hêghen, tồn tại xuất phát không phải là tồn tại hiện hữu mà là tồn tại thuần túy, nghĩa là tồn tại ở một phương