Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của Đảng ta trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay (1986-2006)

Đoàn kết là một truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam. Nhờ đoàn kết mà có sức mạnh, bảo đảm cho dân tộc tồn tại và phát triển trong suốt quá trình lịch sử dụng nước và giữ nuớc. Kế thứa và phát huy truyền thống của dân tộc, từ khi ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, xóa bỏ chế độ thuộc địa nừa phong kiến ở nước ta, giành chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã dẫn tới thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất tổ quốc, đưa cả nuớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay đất nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới, nhất là khi chúng ta gia nhập tổ chức WTO. Dưới sự lãnh đạo của mình Đảng đã đề ra đường lối đổi mới trong quá trình hội nhập đã thu được những thành tựu rất quan trọng, tăng them niềm tin sự phấn khởi trong nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc vượt qua khó khăn thử thách, giành thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới các tệ nạn xã hội như: tham nhũng, lãng phí, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân Bên cạnh đó các thế lực thù địch không ngừng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, nhất là âm mưu “diễn biến hòa bình” đặc biệt là nhằm vào vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

doc28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4680 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của Đảng ta trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay (1986-2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đoàn kết là một truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam. Nhờ đoàn kết mà có sức mạnh, bảo đảm cho dân tộc tồn tại và phát triển trong suốt quá trình lịch sử dụng nước và giữ nuớc. Kế thứa và phát huy truyền thống của dân tộc, từ khi ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, xóa bỏ chế độ thuộc địa nừa phong kiến ở nước ta, giành chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã dẫn tới thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất tổ quốc, đưa cả nuớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay đất nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới, nhất là khi chúng ta gia nhập tổ chức WTO. Dưới sự lãnh đạo của mình Đảng đã đề ra đường lối đổi mới trong quá trình hội nhập đã thu được những thành tựu rất quan trọng, tăng them niềm tin sự phấn khởi trong nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc vượt qua khó khăn thử thách, giành thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới các tệ nạn xã hội như: tham nhũng, lãng phí,…làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân Bên cạnh đó các thế lực thù địch không ngừng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, nhất là âm mưu “diễn biến hòa bình” đa7c5 biệt là nhằm vào vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới ngọn cờ đoàn kết toàn dân của chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là lí do mà tôi chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của Đảng ta trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay (Từ 1986- 2006)” cho bài niên luận của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của Đảng ta trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, những kết quả đạt được cũng như những hạn chế gặp phải từ đó đưa ra nhũng giải pháp trong việc đoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới cũng như trong tiến trình hội nhập. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng của Đảng ta vào việc đoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới ,thành tựu và hạn chế, từ đó đề ra các giải pháp cơ bản trong viêcđoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề: - Khái quát chung về vấn đề dân tộc ở Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết dân tộc ở Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết các dân tộc ít người ở Việt Nam - Quan điểm và chủ trương của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc - Thành tựu và hạn chế về việc đoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới - Những giải pháp chủ yếu và một số bài học kinh nghiệm trong việc đoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ thời gian cho phép, đề tải chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của đảng ta trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay ”.(1986- 2006). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về vấn đề đoàn kết. 5. Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục tài liệu tham khảo nội dung gồm có 2 chương và 7 tiết PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ÍT NGƯỜI TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1.1 Khái quát chung về vấn đề dân tộc ở Viêt Nam Việt Nam hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn cầu, càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt Nam càng thêm gắn bó chặt chẽ. Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao thông Bắc - Nam, Ðông - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược luôn nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược. Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất của các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng được tăng cường. Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xảy ra những va chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc. Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động chia rẽ dân tộc. Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người dân Việt Nam. Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau: Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Hiện nay dân tộc Kinh cư trú ở Ðắc Lắc chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc ít người miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào khu vực này ( kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với số lượng khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng... Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản có tới 3-4 dân tộc cùng sinh sống. Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em. Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái: Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc của Tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã hội, mà cả về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau: Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Ðiều kiện canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường bấp bênh. Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật. Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân chủ yếu là do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước phải liên tục đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là những nguồn gốc của sự không bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ chung. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng: Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm phong phú nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng là nét riêng, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng cố và tăng cường sự thống nhất, nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc. Ðồng thời phải khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc. 1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam 1.2.1.Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ những cơ sở quan trọng sau đây: Thứ nhất là truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam: Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất nhiều chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" [6.tr 172] Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ ChíMinhvềđạiđoàn kếtdân tộc. Thứ hai: Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng: Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản, rằng nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách mạng vô sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc. Thứ ba là tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới: Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí Minh đã luôn chú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài học của cuộc Cách mạng Tháng Mười. Những là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông. Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 1.2.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc - Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế: “ Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”[10.tr 22, 154]; “Đoàn kết là điểm mẹ; điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công.” Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết. - Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của
Luận văn liên quan