Tiểu luận Vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này

Trong Tố tụng hình sự để thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn để hạn chế quyền và lợi ích của công dân. Các biện pháp trong tố tụng vô cùng phong phú về tính chất cũng như mức độ cưỡng chế và về đối tượng áp dụng, trong đó có biện pháp tạm giữ. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung cũng như phương hướng hoàn thiện biện pháp tạm giữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhưng không hạn chế khả năng và hiệu quả của hoạt động tố tụng, hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Bài tiểu luận sau của em xin được đề cập đến vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3785 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI MỞ ĐẦU Trong Tố tụng hình sự để thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn để hạn chế quyền và lợi ích của công dân. Các biện pháp trong tố tụng vô cùng phong phú về tính chất cũng như mức độ cưỡng chế và về đối tượng áp dụng, trong đó có biện pháp tạm giữ. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung cũng như phương hướng hoàn thiện biện pháp tạm giữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhưng không hạn chế khả năng và hiệu quả của hoạt động tố tụng, hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Bài tiểu luận sau của em xin được đề cập đến vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này. B. NỘI DUNG I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ TẠM GIỮ 1. Khái niệm “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã”. Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ. Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã là để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt. 2. Đối tượng tạm giữ Theo khoản 1 Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy đối tượng tạm giữ gồm những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003, người bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi phạm tội, người bị bắt theo quyết định truy nã tại Điều 82 BLTTHS 2003. Nhìn chung đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, tuy nhiên điều luật cũng không quy định bắt buộc trong tất cả mọi trường hợp bắt đó đều phải tạm giữ, mà trong một số trường hợp bắt người phạm tội quả tang, nếu xét thấy hành vi phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng lại có nơi cư trú rõ ràng không có cơ sở để cho người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra trong các trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ. Điều 86 BLTTHS 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Cả hai dạng đối tượng bị tạm giữ đều trong trường hợp bắt người vậy giữa bắt người và tạm giữ có mối quan hệ gì với nhau phải chăng việc tạm giữ phụ thuộc vào việc bắt người? Khoản 1 Điều 83 quy định “Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Như vậy, tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập, việc áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ  nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vì sau khi bắt người thì người đó không nhất thiết phải bị tạm giữ, sau khi bắt người sẽ có hai tình huống xảy ra hoặc là người đó bị tạm giữ hoặc là người đó được trả tự do. Tạm giữ không chỉ áp dụng với các đối tượng trong trường hợp bắt người mà còn có thể áp dụng với trường hợp người phạm tội ra tự thú, đầu thú. Việc tạm giữ người tự thú, đầu thú nhằm mục đích xác minh thêm về hành vi phạm tội của người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với họ. Qua đó có thể thấy đối tượng tạm giữ của BLTTHS năm 2003 đã được mở rộng hơn so với quy định về đối tượng tạm giữ trong BLTTHS trước đó ra đời vào năm 1988, luật năm 1988 không quy định về việc tạm giữ đối với những đối tượng tự thú, đầu thú. 3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định: “Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây: - Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (cơ quan điều tra trong công an nhân dân, quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…) - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới. - Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng. - Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Như vậy cơ quan điều tra cấp huyện trở lên mới có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền. Những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang. 4. Thủ tục tạm giữ Theo quy định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS 2003, việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết phải tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây: - Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú. - Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. - Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra. 5. Thời hạn tạm giữ Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định: “1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. 2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn: trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn. 3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. 4. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam”. Việc quy định được gia hạn tạm giữ cụ thể quy định có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn lan, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt. Ngoài ra việc đặt ra quy định khi gia hạn tạm giữ cần có quyết định phê chuẩn của viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm quyền lợi cho công dân tránh tình trạng do những mâu thuẫn cá nhân ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ. Khoản 4 Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù. Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Điểm mới về thời hạn tạm giữ trong BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 là bổ sung về thời hạn trong khoảng thời gian 12 giờ Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định ra hạn tạm giữ. Điều này góp phần đảm bảo quyền lợi của người bị tạm giữ. II. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ Ưu điểm 1.1. Về đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ Pháp luật tố tụng hình sự đã chỉ ra 1 cách cụ thể các đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc người phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đấu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Chính việc quy định 1 cách cụ thể các trường hợp áp dụng như trên tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng đối tượng cần tiến hành bắt giữ trên thực tế, tránh nhầm lẫn (khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003). + Trường hợp bắt người khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra. + Trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động biểu hiện cản trở việc điều tra thì không cấn phải tạm giữ. + Người bị bắt theo lệnh truy nã ngay sau khi lấy lời khai cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ dặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.           Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đến việc tạm giữ người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra quy định chi tiết, rõ ràng sau “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong truờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dứới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 303 BLTTHS năm 2003).           Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đây là quy định mới so với BLTTHS 1988. Đây là một ưu điểm vì bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, quy định chặt chẽ hơn việc tạm giữ người, hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại cho người bị bắt oan.           Khi người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì ra cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đối với họ. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có nhiệm vụ trông nom, bảo quản. Quy định này thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ.           1.2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ Quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã chỉ ra một cách cụ thể về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ thuộc về cơ quan nào và trách nhiệm của họ khi thi hành quyết định tạm giữ (khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003). Đó là: Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của BLTTHS năm 2003 và Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ   1.3. Về thời hạn tạm giữ BLTTHS năm 2003 đã quy định rõ thời hạn tạm giữ (khoảng thời gian cụ thể) và cách tính thời gian tạm giữ (Điều 87). Quy định này thể hiện sự tôn trọng các quyền nhân thân quan trọng của công dân cụ thể đó là quyền tự do thân thể của Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và chính sách nhân đạo của nhà nước ta. 2. Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ 2.1. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Chính vì vậy, quy định tại khoản 1 Điều 86 vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý. Quy định của luật về tạm giữ người chưa thành niên tại Điều 303 không nên chỉ phụ thuộc vào loại tội mà họ đã thực hiện trên thực tế. 2.2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc điều luật quy định bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì các cơ quan như hải quan, kiểm lâm được tham gia vào 1 số hoạt động TTHS như khởi tố vụ án, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu như ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, xét cần ngăn chặn ngay người có hành vi phạm tội chạy trốn thì tạm giữ ngay người đó và xin lệnh tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền... Tuy nhiên cũng chưa có quy định chính thức nào trong BLTTHS cho phép cơ quan này có quyền bắt khẩn cấp và tạm giữ và như vậy thì người đã thực hiện hành vi phạm tội vẫn được tự do,tẩu tán tang vật, lẩn tránh pháp luật… 2.3. Về thời hạn tạm giữ Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt” Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định. Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ, cần có sự quy định rõ ràng hơn. Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm c Điều 81 BLTTHS thì; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là: Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định. Thứ tư: Khoản 1 điều 87 quy định về thời điểm bắt đầu của thời hạn tạm giữ là thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt là chưa dự tính hết những phức tạp nảy sinh từ thực tiễn bởi vì trên thực tế không phải trường hợp nào cũng có thể giải ngay người bị bắt cơ quan điều tra ví dụ người bị bắt trên tàu bay,tàu biển khi tàu bay,tàu biển rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam…Những người bị bắt này có thể một thời gian khá lâu sau mới bị giải đến cơ quan điều tra được,khoảng thời gian này những người bị bắt này bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào?bắt hay tạm giữ? Bắt thì không phải vì biện pháp bắt phải coi là kết thúc sau khi người có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị bắt, nhưng tạm giữ cũng không phải vì lúc đó người bị bắt vẫn chưa được nhận bởi cơ quan điều tra. * Về gia hạn tạm giữ: Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003: “Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lấn nhưn không được quá 3 ngày...” Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy đinh nảy trong việc gia hạn tạm giữ. Mặt khác cần quy định rõ hơn “Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá ba ngày”. Nếu quy định như trên thì nên hiểu “hai lần” mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiều “hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhiều người hiểu sai lệch quy định của luật. Do vậy chúng ta cần có quy định rõ hơn. * Việc trả tự do cho người bị tạm giữ: Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.” Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ?  Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người  tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 87 BLTTHS thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Vấn đề đ ra ở đây là khi bị can bị tạm giam thì việc tính