Tiểu luận Vốn tự có của ngân hàng thương mại Việt Nam và các biện pháp tăng cường vốn tự có

Hiện tại, so sánh các tổ chức tín dụng của Việt Nam với các nước trong khu vực cho thấy, mức vốn tự có của các ngân hàng Việt Nam là khá nhỏ bé. Đa phần các ngân hàng trong nước chỉ có số vốn tự có vào cỡ từ 1000 tỷ đến 5000 tỷ VND. Cá biệt có một số các ngân hàng có vốn tự có tương đối như: Agribank hơn 10 nghìn tỷ VND; Vietcombank hơn 12 nghìn tỷ VND.tính đến cuối 2007.Nhưng vẫn chưa bằng một ngân hàng hạng trung bình trong khu vực là khoảng 1 tỷ USD tương đương hơn 16000 tỷ VND. Căn cứ thực lực kinh tế tài chính đó, đã đến lúc các ngân hàng trong nước cần tăng tốc thực hiện kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, củng cố tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành để đối mặt với những thách thức khi Việt Nam thực hiện các cam kết gia nhập WTO ( mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng vào năm 2010). Lúc đó, các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính tín dụng trong nước, chắc chắn thị phần tín dụng của các ngân hàng Việt Nam sẽ bị phân hoá và chia sẻ vì ngân hàng nước ngoài có uy tín, trình độ quản lý, có lợi thế về vốn và công nghệ, với cách thức tiếp thị cũng bài bản hơn, hấp dẫn hơn. Do vậy sức ép cạnh tranh lên các ngân hàng trong nước sẽ rất lớn.

doc23 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5805 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vốn tự có của ngân hàng thương mại Việt Nam và các biện pháp tăng cường vốn tự có, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC PHƯƠNG ĐÔNG KHOA KINH TẾ QUẢN TRỊ KINH DOANH ----------***@***---------- TIỂU LUẬN Đề tài:Vốn tự có của ngân hàng thương mại Việt Nam và các biện pháp tăng cường vốn tự có. Giảng viên hướng dẫn: Võ Minh Thu Họ tên sinh viên: Vũ Văn Hải Mã sinh viên: 505411036 _T6/2008_ Lời mở đầu! Hiện tại, so sánh các tổ chức tín dụng của Việt Nam với các nước trong khu vực cho thấy, mức vốn tự có của các ngân hàng Việt Nam là khá nhỏ bé. Đa phần các ngân hàng trong nước chỉ có số vốn tự có vào cỡ từ 1000 tỷ đến 5000 tỷ VND. Cá biệt có một số các ngân hàng có vốn tự có tương đối như: Agribank hơn 10 nghìn tỷ VND; Vietcombank hơn 12 nghìn tỷ VND..tính đến cuối 2007.Nhưng vẫn chưa bằng một ngân hàng hạng trung bình trong khu vực là khoảng 1 tỷ USD tương đương hơn 16000 tỷ VND. Căn cứ thực lực kinh tế tài chính đó, đã đến lúc các ngân hàng trong nước cần tăng tốc thực hiện kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, củng cố tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành để đối mặt với những thách thức khi Việt Nam thực hiện các cam kết gia nhập WTO ( mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng vào năm 2010). Lúc đó, các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính tín dụng trong nước, chắc chắn thị phần tín dụng của các ngân hàng Việt Nam sẽ bị phân hoá và chia sẻ vì ngân hàng nước ngoài có uy tín, trình độ quản lý, có lợi thế về vốn và công nghệ, với cách thức tiếp thị cũng bài bản hơn, hấp dẫn hơn. Do vậy sức ép cạnh tranh lên các ngân hàng trong nước sẽ rất lớn. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, để đảm bảo sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính tín dụng thì hệ thống ngân hàng trong nước cần đề ra lộ trình huy động và tăng vốn một cách cụ thể nhằm mở rộng về quy mô và tăng cường năng lực tài chính. Đây chính là cơ sở để em lựa chọn và phân tích đề tài! Chương I LÝ LUẬN CHUNG Vốn tự có của các ngân hàng thương mại. Khái niệm: Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Về mặt quản lý, theo các cơ quan quản lý ngân hàng(NHNN), vốn tự có của ngân hàng được hợp thành từ hai loại: Vốn tự có cấp 1 và vốn tự có cấp 2 Vốn tự có cấp 1,2 được xác định như sau: Căn cứ Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (dưới đây gọi tắt là Quyết định 457) ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng (TCTC), và Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN (dưới đây gọi tắt là Quyết định 03) ngày 19/01/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN; Xác định vốn tự có cấp 1: Các chỉ tiêu thuộc vốn tự có cấp 1: Stt  Khoản mục  Nguồn số liệu từ Bảng Cân đối TK KT  Ghi chú   1  Vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp)  Dư Có TK 601 “Vốn điều lệ”.  Không tính vào chỉ tiêu này số vốn đã được các chủ sở hữu cam kết nhưng chưa cấp đủ, góp đủ.   2  Thặng dư vốn cổ phần  Dư Có/Dư Nợ TK 603 “thặng dư vốn cổ phần”.  Dư Nợ ghi số âm.   3  Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ  Dư Có TK 611 “Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ”.    4  Quỹ dự phòng tài chính  Dư Có TK 613 “Quỹ dự phòng tài chính”.    5  Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ  Dư Có TK 612 “Quỹ đầu tư phát triển”, Dư Có TK 602 “vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ” (chỉ lấy số liệu của chỉ tiêu "Vốn đầu tư XDCB và mua sắm TSCĐ" được trích chuyển từ TK 612 sang TK 602).    6  Lợi nhuận không chia  Dư Có TK 692 “Lợi nhuận năm trước” (phần lợi nhuận không chia).  Lợi nhuận không chia được xác định theo quy định tại khoản 11, Điều 2 Quyết định 457.    Tổng cộng   (1A)   Ghi chú: riêng chỉ tiêu “cổ phiếu quỹ” sẽ được hướng dẫn khi cơ chế nghiệp vụ cho phép. Giới hạn khi xác định vốn tự có cấp 1:Vốn tự có cấp 1 phải trừ đi giá trị lợi thế thương mại Stt  Khoản mục  Nguồn số liệu từ Bảng Cân đối TK KT  Ghi chú   1  Giá trị lợi thế thương mại  Dư Nợ 388 “Chi phí chờ phân bổ” (phần lợi thế thương mại được theo dõi trên tài khoản, sổ chi tiết).  Giá trị lợi thế thương mại được xác định theo quy định tại khoản 12, Điều 2 Quyết định 457.    Tổng cộng   (1B)   Vốn tự có cấp 1 được tính vào vốn tự có của TCTD (I) (I) = (1A) – (1B) Xác định vốn tự có cấp 2: Các chỉ tiêu thuộc vốn tự có cấp 2: Stt  Khoản mục  Nguồn số liệu từ Bảng Cân đối TK KT  Ghi chú   1  Giá trị tăng thêm của tài sản cố định  Tổng giá trị tăng thêm của các TSCĐ được đánh giá lại và được hạch toán trên TK 642.  Chỉ lấy 50% phần giá trị tăng thêm của TSCĐ được định giá lại theo quy định của pháp luật.   2  Giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp)  Tổng giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được đánh giá lại và hạch toán trên TK 641.  Chỉ lấy 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.   3  Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do TCTD phát hành:     3a  Trái phiếu chuyển đổi do TCTD phát hành  Dư Có TK 43 “Tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá” (phần trái phiếu chuyển đổi được theo dõi trên TK, sổ chi tiết) cộng cấu phần vốn trái phiếu chuyển đổi theo dõi trên TK 609 (nếu có).  Chỉ lấy giá trị trái phiếu chuyển đổi có đủ các điều kiện quy định tại tiết c, điểm 1.2, khoản 1, Điều 3 Quyết định 457.   3b  Cổ phiếu ưu đãi do TCTD phát hành  Dư Có TK 487 “cấu phần nợ của cổ phiếu ưu đãi” cộng cấu phần vốn của cổ phiếu ưu đãi theo dõi trên TK 65 (nếu có).  Chỉ lấy giá trị cổ phiếu ưu đãi có đủ các điều kiện quy định tại tiết c, điểm 1.2, khoản 1, Điều 3 Quyết định 457.   4  Các công cụ nợ khác  Dư Có TK 43 “Tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá” (phần công cụ nợ khác được theo dõi trên TK, sổ chi tiết)  Chỉ lấy giá trị các công cụ nợ có đủ điều kiện theo quy định tại tiết d, điểm 1.2, khoản 1, Điều 3 Quyết định 457.   5  Dự phòng chung  Dư Có các TK “Dự phòng chung”: 2092, 2192, 2292, 2392, 2492, 2592,2692, 2792, 4895.  Số tiền dự phòng chung được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro theo quy định tại tiết đ, điểm 1.2, khoản 1, Điều 3 Quyết định 457.    Tổng cộng     Giới hạn khi xác định vốn tự có cấp 2: Sau khi tính toán các chỉ tiêu thuộc vốn tự có cấp 2 theo điểm 1 Mục này, TCTD thực hiện xác định giới hạn vốn cấp 2 theo quy định tại Quyết định 457 và các Quyết định sửa đổi, bổ sung có liên quan. Vốn tự có cấp 2 được tính vào vốn tự có của TCTD (II): Vốn tự có cấp 2 được tính vào vốn tự có là phần vốn sau khi đã xác định phần giới hạn quy định tại khoản 2 Mục này. Các khoản phải trừ khỏi vốn tự có : Stt  Khoản mục  Nguồn số liệu từ Bảng Cân đối TK KT  Ghi chú   1  Toàn bộ phần giá trị giảm đi của tài sản cố định  Tổng giá trị giảm đi của các TSCĐ được đánh giá lại và hạch toán trên TK 642.  Toàn bộ phần giá trị giảm đi của TSCĐ do định giá lại theo quy định của pháp luật.   2  Toàn bộ phần giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp)  Tổng giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được đánh giá lại và hạch toán trên TK 641.  Toàn bộ phần giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.   3  Tổng số vốn của TCTD đầu tư vào TCTD khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và tổng các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán:     3a  Tổng số vốn của TCTD đầu tư vào TCTD khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần.  Lấy số liệu trên các TK 341, 342, 343, 344, 345, 346, 347, 348 (phần góp vốn, mua cổ phần vào TCTD khác).    3b  Tổng các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán.  Lấy số liệu trên các các TK 341, 342, 343, 345, 346, 347 (phần góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán).  Thuật ngữ “quyền kiểm soát” được hiểu theo quy định tại khoản 2, Điều 1 của Quyết định 03   4  Phần vượt mức vốn tự có của TCTD đối với khoản góp vốn, mua cổ phần:     4a  Phần vượt mức 15% vốn tự có của TCTD đối với khoản góp vốn, mua cổ phần của TCTD vào một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư.  Việc tính toán chỉ tiêu này được thực hiện theo quy định tại điểm 3.4, khoản 3, Điều 3 Quyết định 03 trên cơ sở số liệu chi tiết tại các TK 341, 342, 343, 344, 345, 346, 347, 348.    4b  Phần vượt mức 40% vốn tự có của TCTD đối với tổng các khoản góp vốn, mua cổ phần của TCTD vào các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, ngoại trừ phần vượt mức 15% đã trừ khỏi vốn tự có nêu trên     5  Khoản lỗ kinh doanh (bao gồm cả những khoản lỗ luỹ kế)  Dư Nợ TK 692 “Lợi nhuận năm trước” (bao gồm cả lỗ luỹ kế từ các năm trước)  Được xác định qua kết quả kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập.    Tổng cộng   (IV)   Ta có công thức xác định vốn tự có như sau: Vốn tự có = Vốn tự có cấp 1 + Vốn tự có cấp 2 – Các khoản giảm trừ Đặc điểm của vốn tự có: Vốn tự có là nguồn vốn ổn định của ngân hàng và luôn tăng trưởng trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh (thông thường từ 8% đến 10%), tuy nhiên nó lại giữ một vai trò rất quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành nên các nguồn vốn khác của ngân hàng đồng thời tạo nên uy tín ban đầu của ngân hàng. Vốn tự có quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, cụ thể vốn tự có là cơ sở để xác định giới hạn huy động vốn của ngân hàng. Nó còn là yếu tố để các cơ quan quản lý dựa vào để xác định các tỉ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng (Theo Pháp lệnh ngân hàng năm 1990 thì một ngân hàng không được phép huy động vốn quá 20 lần so với vốn tự có vì nó ảnh hưởng đến năng lực chi trả của ngân hàng). Theo luật các tổ chức tín dụng của VN, một ngân hàng khi cho vay đối với một khách hàng thì tổng dư nợ cho vay cao nhất không được phép vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng... Chức năng của vốn tự có Chức năng bảo vệ: Trong hoạt đông kinh doanh luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng, đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản. Khi đó vốn tự có sẽ giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh và đảm bảo cho ngân hàng tránh khỏi nguy cơ trên. Trong một số trường hợp ngân hàng mất khả năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử dụng để hoàn trả cho khách hàng. Ngoài ra, do mối quan hệ tương hỗ giữa ngân hàng với khách hàng, vốn tự có còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng không bị mất vốn khi gửi tiền tại ngân hàng. Chức năng hoạt động: Thể hiện ở chỗ vốn tự có có thể được sử dụng để cho vay, hùn vốn hoặc đầu tư chứng khoán nhằm mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận mà nó mang lại cũng không cao. Vì vậy chức năng hoạt động ở đây cũng chỉ là thứ yếu. Chức năng điều chỉnh: Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành những quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính an toàn (ví dụ như các ngân hàng không được đầu tư vào tài sản cố định vượt quá 50% vốn của ngân hàng). Vốn tự có còn là căn cứ để xác định và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn trong kinh doanh. Các biện pháp tăng vốn tự có ngân hàng thương mại Phát hành cổ phiếu Phát hành cổ phiếu là biện pháp dành riêng cho các ngân hàng thương mại cổ phần! Biện pháp được các ngân hàng thương mại cổ phần sử dụng rất phổ biến trong giai đoạn này để tăng vốn. Có hai hình thức chủ yếu là phát hành cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) hoặc cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường(CP phổ thông): Là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của cổ đông thường đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu thường cho phép cổ đông thường được hưởng các quyền lợi đối với công ty như quyền biểu quyết những vấn đề liên quan đến quản lý công ty, quyền được hưởng cổ tức cao từ lợi nhuận sau thuế... Cổ phiếu ưu đãi: là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông ưu đãi đối với phần vốn góp vào công ty cổ phần; đồng thời cho phép cổ đông ưu đãi được hưởng một số quyền ưu đãi lớn hơn so với các cổ đông thường như: ưu đãi về cổ tức( nhận cổ tức theo mức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh,tích luỹ cổ tức...),chuyển đổi thành cổ phiếu thường(đối với cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi)... Các ngân hàng cổ phần tuỳ thuộc vào nhu cầu cụ thể của mình mà có thể phát hành thêm cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Ưu điểm của biện pháp tăng vốn bằng cổ phiếu: Việc phát hành cổ phiếu vừa giúp các ngân hàng tăng quy mô vốn kinh doanh dài hạn lại vừa giúp các ngân hàng tránh được nghĩa vụ nợ nần, không phải lo việc trả vốn gốc và lãi Khi sử dụng biện pháp này sẽ giúp các ngân hàng thương mại tăng quy mô vốn chủ sở hữu do đó làm thay đổi kết cấu các loại vốn ( kết cấu giữa vốn chủ sở hữu / nợ phải trả, vốn thường xuyên(dài hạn) / vốn tạm thời(ngắn hạn)...).Như vậy, làm tăng độ vững chắc về tài chính của ngân hàng, tăng hệ số đảm bảo nợ, tăng độ tín nhiệm của ngân hàng... từ đó giúp tăng khả năng vay vốn, huy động vốn của ngân hàng trong tương lai. Vì cổ phiếu đại diện cho quyền sở hữu của người nắm giữ cổ phiếu trong ngân hàng và việc phân chia cổ tức cho cổ đông không phải là cố định mà tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng nên các ngân hàng thường có độ chủ động cao hơn trong việc sử dụng vốn thu được do phát hành cổ phiếu. Nhược điểm của biện pháp tăng vốn bằng cổ phiếu: Việc phát hành cổ phiếu(đặc biệt là cổ phiếu thường) ra công chúng sẽ làm tăng số cổ đông sở hữu ngân hàng và như vậy dẫn tới việc phân chia quyền kiểm soát và quyền biểu quyết. Điều này dẫn đến bất lợi cho các cổ đông hiện hành. Vì cổ phiếu liên quan đến cổ tức nên việc phát hành thêm cổ phiếu mới ra công chúng đồng nghĩa với việc các cổ đông hiện hành sẽ phải chia sẻ một phần lợi ích của mình với cổ đông mới. Để giảm thiểu nhược điểm này các ngân hàng cần phải sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn tăng thêm do phát hành cổ phiếu, tạo ra một tỉ suất lợi nhuận cao để đảm bảo việc chi trả cổ tức cho các cổ đông. Khác với các hình thức vay vốn thì lãi phải trả được tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên giảm được khoản thuế phải nộp cho nhà nước, thì cổ tức chi trả cho cổ đông lại lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đặc điểm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sử dụng vốn cổ phiếu - yếu tố quan trọng mà các ngân hàng phải cân nhắc khi lựa chọn các giải pháp tăng vốn. Phát hành trái phiếu Trái phiếu ngân hàng là chứng chỉ vay vốn do các ngân hàng phát hành, thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết của ngân hàng về thanh toán số lợi tức tiền vay cho người nắm giữ trái phiếu vào những thời hạn đã xác định và hoàn trả khoản vay ban đầu khi trái phiếu đáo hạn. Tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu dài hạn: Đây là biện pháp hiệu quả để tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng đáp ứng những nhu cầu trước mắt, nhưng về bản chất đây chỉ là tăng vốn tự có trên danh nghĩa, còn về lâu dài sẽ là một gánh nặng nợ nần, đồng thời chi phí vốn cao sẽ làm suy giảm mức lợi nhuận của ngân hàng. Tăng vốn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi: Trái phiếu chuyển đổi là trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu thường vào một thời điểm xác định trong tương lai. Loại trái phiếu này vừa có đặc điểm của trái phiếu là được trả một mức lãi suất cố định, nhưng mặt khác lại có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu thường của ngân hàng và đây cũng chính là điểm hấp dẫn của trái phiếu chuyển đổi. Một số lợi điểm khi phát hành trái phiếu: Lãi suất( hay lợi tức) phải trả cho trái phiếu thường được cố định trước và được tính vào chi phí kinh doanh của ngân hàng nên sẽ giúp các ngân hàng giảm được một khoản thuế phải nộp đồng thời giúp nâng cao mức doanh lợi vốn chủ sở hữu. Vì trái phiếu là chứng khoán nợ nên ngân hàng không phải phân chia quyền kiểm soát cho các trái chủ ; số lượng cổ phiếu không tăng nên thu nhập trên mỗi cổ phần được đảm bảo. Vì là nợ phải trả có kỳ hạn nên ngân hàng có thể thay đổi cơ cấu vốn kinh doanh một cách linh hoạt, chủ động thông qua việc ngừng phát hành trái phiếu hoặc mua lại các trái phiếu đang lưu hành. Khi phát hành trái phiếu chuyển đổi, ngân hàng có thể định một mức lãi suất cố định thấp hơn của trái phiếu không có khả năng chuyển đổi. Một số nhược điểm khi phát hành trái phiếu: Ngân hàng sẽ chịu sức ép về nợ nần, phải thanh toán các khoản nợ gốc và lãi khi tới hạn Hệ số nợ của ngân hàng sẽ tăng lên khi phát hành thêm trái phiếu. Trái phiếu chuyển đổi cũng sẽ mang đến một số bất lợi có thể có cho ngân hàng và các cổ đông của ngân hàng khi trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, vốn chủ sở hữu bị “pha loãng” do tăng số lượng cổ phiếu lưu hành, từ đó gây ra sự thay đổi trong việc kiểm soát ngân hàng; nợ của ngân hàng giảm thông qua chuyển đổi sẽ làm mất đi sự cân bằng của cán cân nợ_vốn. Lợi nhuận giữ lại Sau mỗi kỳ kinh doanh, số lợi nhuận thu được sau khi nộp thuế cho nhà nước được phân chia một phần cho các chủ sở hữu dưới dạng cổ tức, một phần được giữ lại tại ngân hàng để bổ xung vốn kinh doanh. Tỷ lệ phân chia cổ tức cho cổ đông và giữ lại để tăng vốn cho ngân hàng phụ thuộc vào chính sách phân chia cổ tức của từng ngân hàng thương mại và đây là một trong những chính sách tài chính quan trọng của các ngân hàng. Việc giữ lại lợi nhuận để tăng vốn cho ngân hàng là hình thức tích luỹ vốn để tái đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh được tất cả các ngân hàng thương mại áp dụng. Tuy nhiên việc giữ lại nhiều hay ít, một phần hay toàn bộ lợi nhuận đòi hỏi các ngân hàng cần phải có những tính toán sao cho hợp lý, phù hợp với mục tiêu và kế hoạch của ngân hàng mình. Khi tỷ lệ lợi nhuận giữ lại ở mức cao sẽ càng đẩy mạnh quá trình tích luỹ vốn và làm giảm yêu cầu huy động vốn từ bên ngoài; do đó làm giảm mức độ phụ thuộc vào các nguồn cung cấp từ bên ngoài, dẫn đến giảm rủi ro tài chính cho ngân hàng. Tuy nhiên, việc này dẫn đến làm giảm thu nhập của cổ đông, nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu cũng như lòng tin của các nhà đầu tư. Ngược lại, khi tỷ lệ lợi nhuận giữ lại ở mức thấp do tỷ lệ chi trả cổ tức cao sẽ dẫn đến tăng trưởng vốn chậm chạp, có thể làm giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời, tăng rủi ro phá sản. Vì vậy, nếu một ngân hàng có tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để bổ sung vốn tự có ổn định qua các năm và tương ứng với tốc độ tăng trưởng tài sản có thì chứng tỏ ngân hàng đang có một sự phát triển ổn định, thể hiện mức độ ủng hộ cao của các cổ đông đối với chính sách cổ tức của ban lãnh đạo ngân hàng. Cổ phần hoá Đây là biện pháp tăng vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước. Thực chất của việc cổ phần hoá là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ sở hữu nhà nước sang cổ phần bằng biện pháp phát hành cổ phiếu. Trong thời kỳ kinh tế ngày càng phát triển, vấn đề hội nhập càng ngày càng trở nên cấp thiết hơn đòi hỏi các ngân hàng cần phải có một tiềm lực tài chính thật lớn mạnh mà nếu chỉ trông chờ vào phần vốn cấp của nhà nước thì không đủ. Khi cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước trở thành các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước sẽ có rất nhiều lợi thế: Tăng quy mô vốn của ngân hàng lên và đa dạng thêm nhiều nguồn bổ xung vốn như: Vốn của nhân dân, nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn tài chính... Khi c
Luận văn liên quan