Tiểu luận Xã hội học y tế

Sức khỏe con người là một trong những mối quan tâm ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuyên ngôn của Hội nghị quốc tế về chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Alma Ata (năm 1978) Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển tại Cairo (năm 1994), đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe đối với việc phát triển chất lượng dân số và ổn định quy mô, cơ cấu dân số [2,107]. Ở Việt Nam, trong Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010 đã khẳng định: “Dân số là một phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công cuộc CNH- HĐH đất nước”. Chiến lược về dân số là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện chiến lược này cần đến sự đóng góp quan trọng của ngành Y tế bởi dân số và hoạt động chăm sóc sức khỏe có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhau

pdf42 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2775 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xã hội học y tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học dân số Tiểu luận Xã hội học y tế 1 Xã hội học dân số 7.2. DÂN SỐ VÀ Y TẾ Sức khỏe con người là một trong những mối quan tâm ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuyên ngôn của Hội nghị quốc tế về chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Alma Ata (năm 1978) Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển tại Cairo (năm 1994), đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe đối với việc phát triển chất lượng dân số và ổn định quy mô, cơ cấu dân số [2,107]. Ở Việt Nam, trong Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010 đã khẳng định: “Dân số là một phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công cuộc CNH- HĐH đất nước”. Chiến lược về dân số là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện chiến lược này cần đến sự đóng góp quan trọng của ngành Y tế bởi dân số và hoạt động chăm sóc sức khỏe có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhau. 7.2.1. Tác động của dân số đến y tế 7.2.1.1. Quy mô và tỷ lệ gia tăng dân số ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe Vấn đề dân số bao gồm: quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố dân cư. Đây là những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững đất nước, tác động trực tiếp đối với sự phát triển ngành y tế nước ta. Trong đó, quy mô và tốc độ gia tăng dân số chẳng những làm cho mức độ cải thiện y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân bị chậm đi, mà có thể không được cải thiện hoặc thậm chí kém đi. Nói cách khác, trong trường hợp này dân số có tác động tiêu cực đối với sự phát triển y tế [3; 77]. Trong bối cảnh đó, nguy cơ lây nhiễm bệnh tật, bùng phát các ổ dịch bệnh dẫn đến tỷ lệ tử vong sẽ xảy ra cao. Trong 2 Xã hội học dân số “Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010” đã nhận định: “Chất lượng dân số nước ta còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Do đó, nâng cao chất lượng dân số vừa là mục tiêu, vừa là biện pháp tốt để giảm sức ép tới ngành y tế. a/ Quy mô và tỷ lệ gia tăng dân số ở Việt Nam Theo báo cáo của Tổng cục thống kê dân số: Tổng số dân của Việt nam vào 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 là 85.789.573 người, trong đó có 25.374.262 người cư trú ở khu vực thành thị, chiếm 29,6%; và có 43.307.024 người là nữ, với tỷ số giới tính đạt mức 98,1 nam trên 100 nữ. Từ thời điểm 01/4/1999, dân số nước ta tăng thêm 9,47 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 947 nghìn người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong thời kỳ giữa hai cuộc Tổng điều tra 1999 và 2009 là 1,2%/ năm, giảm mạnh so với thời kỳ 1989- 1999.( Theo “Kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009; www.google.com). Những con số này khẳng định kết quả giảm nhanh mức sinh trong thập kỷ qua, nhất là từ khi triển khai thực hiện Chiến lược Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000 theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách DS- KHHGĐ. Kết quả đạt được của chương trình DS- KHHGĐ Việt Nam đã góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng thu nhập bình quân đầu người (GDP) hàng năm trong thập kỷ qua. Mặc dù mức sinh giảm nhanh, nhưng quy mô dân số Việt Nam vẫn ngày một lớn do số dân tăng thêm trung bình mỗi năm còn ở mức cao. Trung bình mỗi năm dân số Việt Nam tăng thêm khoảng 1 triệu đến 1,1 triệu người. Như vậy, vấn đề dân số bao gồm cả quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư, là những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân cả hiện tại và trong tương lai. 3 Xã hội học dân số Bảng 1: Tình hình dân số trung bình hàng năm ở nước ta năm 1999- 2008. (Đơn vị: 1000 người) Năm Tổng số Nam Nữ 1999 76.596,70 37.662,1 38.934,6 2000 77.635,40 38.166,4 39.469,0 2001 78.685,80 38.684,2 40.001,6 2002 79.727,40 39.197,4 40.530,0 2003 80.902,14 39.755,4 41.147,0 2004 82.031,70 40.310,5 41.721,2 2005 83.106,30 40.846,2 42.260,1 2006 84.136,80 41.354,9 42.781,9 2007 85.171,70 41.868,0 43.303,7 2008 86.210,80 42.384,5 43.826,3 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008) Tính đến năm 2008, dân số Việt Nam đã ở mức 86,2 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới. Nếu duy trì được mức sinh thay thế thì đến giữa thế kỷ, dân số mới ổn định ở mức 115-120 triệu người. Trong khi đó, chỉ số phát triển con người và chất lượng dân số lại thấp, xếp thứ 108/177 nước. Tuổi thọ trung bình tuy đã đạt đến 71,3 nhưng theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới, tuổi thọ khỏe mạnh chỉ đạt 58,2 tuổi, xếp 116/174 nước. 4 Xã hội học dân số Theo Tổng cục DS- KHHGĐ, sau 50 năm thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân số, KHHGĐ và CSSKSS; 10 năm thực hiện “Chiến lược Dân số Việt Nam và Chiến lược quốc gia về CSSKSS, công tác DS- KHHGĐ”, CSSKSS đã đạt được những kết quả quan trọng, nâng cao chất lượng. Tốc độ tăng dân số giảm mạnh, tỷ lệ dân số trung bình giai đoạn 1999 -2009 còn 1,2%. Đây cũng là mức tăng thấp nhất trong 50 năm qua, con số trung bình của một phụ nữ năm 2009 đạt 2,03%; tình trạng sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sức khỏe sinh sản đã được cải thiện cơ bản so với trước đây. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt với nguy cơ cơ cấu dân số già. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đang cao hơn mức chung của thế giới (Việt Nam 73 tuổi, thế giới 67 tuổi) và đang hướng đến đạt 75 tuổi vào năm 2020, với tuổi thọ khỏe mạnh đạt 65 tuổi. Việt nam vẫn còn 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm gần 6,3% dân số, tuổi thọ khỏe mạnh chỉ đạt 58,2 tuổi/tuổi thọ bình quân là 73; dịch HIV lan rộng, trung bình mỗi ngày có thêm 100 người nhiễm HIV, tại khu vực ven biển Đông Bắc và TP.HCM ước tính 1% người trưởng thành đang sống chung với HIV. Tình trạng nạo phá thai, mang thai ngoài ý muốn, lạm dụng chất gây nghiện đang tăng. Đây là một điều đáng lo ngại, một sức ép lớn đối với y tế nước ta. Vì vậy, tại dự thảo Chiến lược Dân số - sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011- 2020, Bộ Y tế đã đặt ra những mục tiêu cụ thể đến năm 2020 như: giảm tỷ lệ bệnh tật, tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi; giảm 50% tỷ số tử vong mẹ; khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh; tổng tỷ suất sinh không thấp hơn 1,8; quy mô dân số không quá 98 triệu người... Định hướng này sẽ diễn ra trong thời gian dài và còn nhiều khó khăn, thách thức khi vấn đề dân số đi từ quy mô số lượng sang chất lượng. b/ Gia tăng dân số ảnh hưởng đến sức khỏe của người phụ nữ và chăm sóc sức khỏe sinh sản * Gia tăng dân số ảnh hưởng đến sức khỏe của người phụ nữ Quy mô dân số lớn không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội mà còn là thách thức đối với ngành y tế. 5 Xã hội học dân số Hàng năm, Việt Nam có khoảng 15% phụ nữ có thai sẽ gặp phải các biến chứng không thể phòng ngừa hay dự đoán trước. Tuy nhiên, có tới 80% trường hợp tử vong có nguyên nhân trực tiếp là một trong 5 tai biến sản khoa như: băng huyết sau sinh, nhiễm trùng hậu sản, uốn ván rốn, ngộ độc thai và vỡ tử cung. Nguy cơ tử vong khi sinh của phụ nữ miền núi cao gấp 10 lần so với phụ nữ đồng bằng. Giảm tỷ suất tử vong mẹ, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu và vùng xa là một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Mục tiêu của ngành y tế năm 2010 là giảm tỷ suất tử vong mẹ trung bình trên toàn quốc là 130/100.000 ca. (Giảm tỷ lệ tử vong của mẹ ở vùng sâu, vùng xa, 05/02/2009, vietnamplus.vn) * Gia tăng dân số ảnh hưởng chăm sóc sức khỏe sinh sản Bảng 2:Chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2007- 2008 (Đơn vị : Người) STT Chỉ tiêu Đơn vị tính 2007 2008 1 Số người nạo thai Người 115.510 98.948 2 Số hút điều hòa kinh nguyệt Lần 256.992 233.206 3 Tỷ lệ nạo hút thai % 32,00 29,00 (Nguồn:Niên giám thống kê năm 2008) Qua bảng số liệu cho thấy, việc chăm sóc sức khỏe sinh sản ở nước ta thể hiện rõ nhất qua tình trạng nạo phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt của phụ nữ. Từ năm 2007- 2008, số người nạo thai giảm 16.562 (người) chiếm khoảng 14,3%; số lần hút điều hòa kinh nguyệt giảm 23.786 (lần) chiếm gần 9,3% và tỷ lệ nạo hút thai giảm 7,0% nhưng đây vẫn là những con số lớn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người phụ nữ, gây ra nhiều khó khăn đối với việc CSSKSS.  Tình trạng nạo phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt Nạo phá thai có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe bà mẹ. Ở Việt Nam, việc nạo phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt có thể thực hiện dễ dàng tại các cơ sở y tế. 6 Xã hội học dân số Bảng 3: Tình hình nạo, phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt của phụ nữ trong các vùng, cả nước năm 2008 (Đơn vị: người) STT Vùng Hút điều hòa kinh nguyệt Nạo thai 1 Tổng số 233.206 98.948 2 Tuyến TƯ và các ngành 10.322 5.377 3 Đồng bằng sông Hồng 40.894 7.398 4 Đông Bắc 27.555 10.910 5 Tây Bắc 6.736 2.088 6 Vùng Bắc Trung Bộ 6.882 4.673 7 Duyên hải Nam Trung Bộ 6.086 2.047 8 Tây Nguyên 7.228 1.319 9 Đông Nam Bộ 70.176 35.498 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008) Bảng số liệu cho thấy, tình hình nạo, phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt của phụ nữ nước ta năm 2008 ở các vùng trên cả nước. Trong đó, số lượng phụ nữ nạo, phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt ở Đông Nam Bộ đứng đầu, sau đó là khu vực đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc. Có thể nói đây là những khu vực có kinh tế - xã hội phát triển đứng đầu cả nước, số dân đông và mật độ dân số cao. Do đó, vấn đề y tế cần phải chú trọng hơn. Bảng 4: Tỷ lệ nạo, phá thai và hút điều hòa kinh nguyệt của phụ nữ Trong độ tuổi từ 15- 49, năm 1996- 2007 (Đơn vị: %) Trong đó: các biện pháp Tất cả các biện pháp Nhóm tuổi hiện đại 1998 2003 2005 2007 1998 2003 2005 2007 Toàn quốc 71,9 75,3 76,9 79,0 57,9 63,5 65,8 68,2 15- 19 19,3 23,2 23,4 28,2 16,2 18,7 20,2 24,7 20- 24 49,3 51,1 51,1 55,4 41,1 44,1 45,2 48,9 7 Xã hội học dân số 25- 29 71,8 71,3 72,4 73,4 58,6 61,9 63,6 64,8 30- 34 82,9 82,1 83,5 84,4 67,3 70,6 72,7 74,3 35- 39 86,1 86,3 88,3 89,6 69,4 73,8 75,7 77,8 40- 44 81,0 84,1 88,0 89,4 62,9 69,2 73,3 75,8 45- 49 56,6 70,7 70,9 75,2 43,2 55,6 57,9 62,0 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008) Các số liệu cho thấy, mô hình sử dụng các biện pháp tránh thai theo hai độ tuổi tương đối giống nhau qua các năm. Mức độ sử dụng các biện pháp tránh thai tăng dần theo độ tuổi và đạt giá trị cực đại tại nhóm tuổi 35- 39 (đối với tất cả các biện pháp và biện pháp hiện đại). Tỷ lệ phụ nữ trong nhóm tuổi 35- 39 sử dụng các biện pháp tránh thai tại thời điểm 01/04/ 2007 tới 89,6%, trong đó có 77,8% sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại. Đáng chú ý là tỷ lệ dùng các biện pháp tránh thai của phụ nữ ở những độ tuổi trẻ tăng nhanh hơn so với độ tuổi trung niên cả về tốc độ tăng cũng như mức tăng tuyệt đối.[4; 40]. c/ Gia tăng dân số ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quyền trẻ em (ngày 20/02/1990). Từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế quyền trẻ em, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi giảm một nửa; tỷ lệ tiêm chủng luôn đạt mức cao đã giúp nước ta thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000 và uốn ván bà mẹ và trẻ sơ sinh vào năm 2005. Trẻ em nước ta ngày càng được hưởng nền giáo dục tốt hơn với 95% trẻ trong độ tuổi đi học được đến trường. Các cơ hội tăng cường sự tham gia của trẻ em ngày càng được mở rộng. Việt Nam ngày càng quan tâm đến việc xây dựng môi trường an toàn và lành mạnh cho mọi trẻ em cũng như ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xâm hại trẻ em. Tuy nhiên, vấn đề gia tăng dân số có ảnh hưởng không nhỏ đối với sức khỏe của trẻ. Theo con số thống kê của UNICEF, trung bình mỗi giờ trôi qua lại có 3 trẻ em Việt Nam bị tử vong. Ước tính mỗi năm có hơn 26.000 trẻ em tử vong trước khi tròn 5 tuổi. Các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó là: nguyên nhân sơ sinh (36%), viêm phổi (19%), tiêu chảy (15%), sốt rét (8%), sởi (4%) và AIDS (4%). Tỷ lệ tử vong ở trẻ 8 Xã hội học dân số em miền núi, nông thôn và các gia đình nghèo vẫn cao hơn 3- 4 lần so với miền xuôi, thành thị và các gia đình khá giả. Vấn đề tử vong ở trẻ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh cũng như nuôi con bằng sữa mẹ. Tỷ lệ trẻ em được bú sữa mẹ hiện còn thấp, chỉ khoảng 58% trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ trong giờ đầu tiên sau khi sinh và 17% được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tiên. (Việt Nam mỗi giờ có 3 trẻ tử vong, www.tin247.com) Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, mặc dù tình trạng dinh dưỡng của dân số Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong 20 năm qua, nhưng vẫn còn xấp xỉ 14% tổng dân số trong tình trạng suy dinh dưỡng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng bà mẹ, trẻ em tại Việt Nam vẫn ở mức cao. Năm 2007 có 1,6 triệu trẻ em (dưới 5tuổi) suy dinh dưỡng nhẹ cân (chiếm 21,2%) và khoảng 2,6 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng thấp còi (33,9%). SDD trẻ em làm ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đến sự phát triển của kinh tế - xã hội, làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong ở trẻ em lên 2,5- 2,8 lần so với trẻ bình thường. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 7.000 trẻ em tử vong có liên quan đến SDD. Việt Nam đang phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ SDD đến năm 2010 còn 20% , năm 2015 xuống còn 15%. Hiện nay có đến 18/64 tỉnh trong cả nước đang có nguy cơ thiếu iốt. Việc thiếu những chất suy dinh dưỡng này (Vitamin A, sắt, iốt) đang gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Các nhà khoa học đều nhấn mạnh nguyên nhân gây ra SDD thấp còi là do suy dinh dưỡng bào thai và chế độ dinh dưỡng 2 năm đầu tiên. d/ Gia tăng dân số dẫn tới nguy cơ gia tăng lây nhiễm các dịch bệnh và HIV/AIDS * Gia tăng dân số dẫn đến tăng nguy cơ lây nhiễm các dịch bệnh Sự gia tăng dân số không kiểm soát được đòi hỏi việc đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của số dân đông. Hệ quả của quá trình này là khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí nhằm đáp ứng nhu cầu sống còn của người dân, đặc biệt là nhóm dân cư nghèo. Đi kèm theo quá trình này là sự ô nhiễm, suy thoái môi trường không khí, 9 Xã hội học dân số nước và đất ngày càng gia tăng. Tình hình này khiến môi trường ngày càng xấu đi.[2;109] Theo thống kê của Bộ Y tế, tính đến 6 tháng đầu năm 2008, 10/26 bệnh truyền nhiễm gây dịch có tỷ lệ mắc trên 100.000 dân cao nhất theo thứ tự là: cúm, tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết, ly trực khuẩn, quai bị, lỵ amíp, viêm gan, thủy đậu… Khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất, đặc biệt được chú ý là các bệnh đường tiêu hóa và hô hấp, những bệnh này có liên quan tới nước sạch vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân. Tại Hội nghị “Tổng kết Dự án Nâng cao sức khỏe cộng đồng thông qua việc cải thiện hành vi vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường do Cục Y tế dự phòng và môi trường và Quỹ Unilever Việt nam” đã công bố: 3 đợt tiêu chảy cấp gần đây với hơn 500 người bị mắc. Theo báo cáo mới của Bộ Y tế vào ngày 25/03/2010, ở Việt Nam hiện có 44% dân số đã bị nhiễm khuẩn lao, tỷ lệ tử vong do lao là 26/100.000 người dân. Trung bình mỗi ngày trên cả nước có 400 trường hợp mắc lao và 55ca tử vong vì căn bệnh này. Đặc biệt tỷ lệ kháng thuốc ở nước ta khá cao so với nước trong khu vực, chiếm 32,5%. (Theo www.baodatviet.vn) * Gia tăng dân số làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS Tháng 12/1990, chỉ phát hiện 1 người nhiễm HIV, nhưng cho đến tháng 11/2000 đã phát hiện 27.290 người nhiễm. Số người nhiễm HIV/AIDS tỷ lệ thuận theo thời gian. Tính đến cuối năm 2004, tổng số các trường hợp nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam được báo cáo là 90.400 người, trong đó có 14.400 trường hợp đã chuyển thành AIDS và 8.400 người đã tử vong. Riêng năm 2004, trên cả nước đã phát hiện 14.200 trường hợp HIV mới, trong đó có 2.800 trường hợp đã chuyển thành AIDS và 1.850 trường hợp bị tử vong. Tính đến tháng 11/2008, Việt Nam đã có 14.931 bệnh nhân AIDS và số bệnh nhân tử vong chiếm quá nửa số lượng ca nhiễm. Số người nhiễm HIV/AIDS và nghiện ma túy tượng trưng như một tảng băng, trong đó số người được thống kê như trên chỉ là phần nổi của tảng băng, còn phần chìm - một con số khá lớn thì chưa thể thống kê được. 10 Xã hội học dân số Bảng 5: Tình hình nhiễm HIV và AIDS qua các năm (Đơn vị: người) HIV AIDS TS chết Năm Số mới phát hiện Số tích lũy Số mới phát hiện Số tích lũy tích lũy 2004 19.494 90.102 8.544 32.819 19.168 2005 21.677 111.779 10.703 43.522 23.707 2006 25.384 137.163 9.817 53.339 30.548 2007 19.047 156.210 8.806 62.145 34.476 2008 20.260 179.735 8.974 71.119 41.544 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008) Qua bảng số liệu trên cho thấy, tình hình nhiễm HIV và AIDS ở nước ta càng ngày càng tăng theo thời gian. Số người mới phát hiện mắc bệnh cũng tăng nhanh chóng. Từ năm 2004 - 2008, số người mới phát hiện bệnh HIV tăng 766 người làm cho số tích lũy tăng thêm 89.633 người. Số người chuyển sang bệnh AIDS được phát hiện thêm là 430 người làm cho số tích lũy bệnh nhân AIDS tăng thêm 38.300 người. Như vậy, ngành y tế cần phải nhanh chóng đưa ra các giải pháp kịp thời để hạn chế sự lây lan của căn bệnh trên. Hình thức lây truyền từ mẹ sang con, hiện nay chỉ có 0,38% (1.500-2000) phụ nữ phát hiện nhiễm HIV/AIDS trong quá trình mang thai. Con số này trên thực tế là gần 6.000 phụ nữ mang thai phát hiện nhiễm HIV. Nếu như không được điều trị dự phòng sẽ có từ 30- 35% (khoảng 2.000 trường hợp) trẻ sơ sinh nhiễm HIV do lây truyền từ mẹ sang con. (www.tin247.com) Số lượng người nhiễm HIV/AIDS phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dân số Việt Nam bởi người bị mắc và người bị lây nhiễm HIV/AIDS có thể ở mọi lứa tuổi. Do đó, có thể nói HIV/AIDS gây ra những hậu quả rất lớn về mặt xã hội và qua đó tác động đến y tế. 11 Xã hội học dân số Bảng 6: Tỷ lệ nhiễm HIV phân theo nhóm tuổi (%) Nhóm tuổi 2004 2005 2006 2007 31/12/2008 <13 0,82 1,90 2,02 1,73 1,80 13-19 8,45 2,85 2,53 4,52 4,41 20-29 55,23 54,45 53,08 52,76 52,11 30-39 23,86 31,45 32,38 30,40 31,37 40-49 8,45 6,55 6,73 8,02 8,05 >50 1,44 1,66 1,45 1,73 1,76 Không xác định 1,74 1,14 1,82 0,82 0,80 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008) Tác động của HIV/AIDS với mỗi đối tượng khác nhau là khác nhau. Việt Nam là nước có dân số trẻ, những người nhiễm HIV/AIDS đã tập trung nhiều nhất ở nhóm tuổi thanh niên từ 20- 29, chiếm 55,23% (2004) và có xu hướng giảm qua các năm nhưng vẫn ở mức độ cao, ngày 31/12/2008 là 52,11%. Đứng sau nhóm tuổi này là nhóm tuổi 30- 39 với 31,37%. Điều này đã tác động đến chất lượng lao động nói riêng và chất lượng dân số Việt Nam trong tương lai nói chung. Số lượng trẻ nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam có nguyên nhân từ bố mẹ chúng hoặc do nguyên nhân khác, làm tăng gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Bảng 7: Tích lũy các trường hợp nhiễm HIV, AIDS và tử vong cho AIDS giai đoạn 2003- 2010 (Đơn vị: người) Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 HIV 165.444 185.757 197.500 207.375 256.185 284.277 315.568 350.970 AIDS 30.755 39.340 48.864 59.400 70.941 83.516 97.175 112.227 Tử 27.135 35.047 44.102 54.132 65.171 77.228 90.346 104.701 vong 12 Xã hội học dân số (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008) Số lượng người nhiễm HIV/AIDS tăng trong tình trạng ngành y tế còn tồn tại nhiều khó khăn như: thiếu thuốc, thiếu giường bệnh, thiếu cơ sở chăm sóc trẻ nhiễm HIV/AIDS… Điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc chăm sóc sức khỏe của ngành y tế và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tương lai của thanh niên. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực của ngành y tế để tìm ra phương thuốc ngăn ngừa và điều trị bệnh