Tiểu luận Xử lý đất ô nhiễm phóng xạ

Mọi người và mọi vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Một người lớn trung bình là tập hợp của khoảng 4.000.000.000.000.000.000.000.000.000 nguyên tử oxy, hydro, cacbon, nito, phốt pho và các nguyên tố khác. Khối lượng nguyên tử tập trung ở phần hạt nhân nguyên tử mà độ lớn của nó chỉ bằng một phần tỷ của nguyên tử. Xung quanh hạt nhân hầu như là khoảng trống, ngoại trừ những phần tử rất nhỏ mang điện tích âm quay xung quanh hạt nhân được gọi là electron. Các electron quyết định tính chất hoá học của một chất nhất định. Nó không liên quan gì với hoạt độ phóng xạ. Hoạt độ phóng xạ chỉ phụ thuộc vào cấu trúc hạt nhân. Một nguyên tố được xác định bởi số lượng Proton trong hạt nhân. Hydro có 1 proton, Heli có 2, Liti có 3, Berili có 4, Bo có 5 và Cacbon có 6 proton. Số lượng Proton nhiều hơn, thì hạt nhân nặng hơn. Thori có 90 proton, Protatini có 91 và Urani có 92 proton được xem là những nguyên tố siêu Urani. Số lượng các nơtron quyết định hạt nhân có mang tính phóng xạ hay không. Để các hạt nhân ổn định, số lượng nơtron trong hầu hết mọi trường hợp đều phải lớn hơn số lượng Protron một ít. Ở các hạt nhân ổn định protron và nơtron liên kết với nhau bởi lực hút rất mạnh của hạt nhân mà không phần tử nào thoát ra ngoài. Trong trường hợp như vậy, hạt nhân sẽ tồn tại bền vững. Tuy nhiên mọi việc sẽ khác đi nếu số lượng nơtron vượt khỏi mức cân bằng. Trong trường hợp này, thì hạt nhân sẽ có năng lượng dư và đơn giản là sẽ không liên kết được với nhau. Sớm hay muộn nó cũng phải xả phần năng lượng dư thừa đó. Hạt nhân khác nhau thì việc giải thoát năng lượng dư cũng khác nhau, dưới dạng các sóng điện từ và các dòng phân tử. Năng lượng đó được gọi là bức xạ. 1.2 Sự phân rã phóng xạ là gì? Quá trình mà nguyên tử không bền giải thoát năng lượng dư của nó gọi là sự phân rã phóng xạ. Hạt nhân nhẹ, với ít Proton và nơtron trở lên ổn định sau một lần phân rã. Khi một nhân nặng như Radi hay Urani phân rã, những hạt nhân mới được tạo ra có thể vẫn không ổn định, mà giai đoạn ổn định cuối cùng chỉ đạt được sau một số lần phân rã.

doc27 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2932 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xử lý đất ô nhiễm phóng xạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BỘ MÔN: XỬ LÝ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT Bài tiểu luận: XỬ LÝ ĐẤT Ô NHIỄM PHÓNG XẠ GVHD: GS T.S LÊ HUY BÁ Người thực hiện: Lê Thị Thúy Vi MSSV: 07708221 TP HỒ CHÍ MINH THÁNG 5 NĂM 2010 MỤC LỤC Trang Tìm hiểu về phóng xạ ………………………………………………2 Bức xạ là gì? …………………………………………….. .2 Sự phân rã phóng xạ là gì? ………………………………..2 Đơn vị hoạt độ phóng xạ (Becquerel) là gì ………………..3 Chu kỳ bán rã diễn ra như thế nào? ………………………..3 Bức xạ tự nhiên và bức xạ nhân tạo là gì? …………………3 Chất phóng xạ sử dụng trong cuộc sống…………………...5 Nguồn ô nhiễm và mức độ ô nhiễm ....................................................8 2.1 Nguồn ô nhiễm …………………………………………………..8 2.2 Mức độ ô nhiễm ………………………………………………….9 Xử lý đất nhiễm phóng xạ …………………………………………10 3.1 Sơ lược ………………………………………………………10 3.2 Mô tả ………………………………………………………12 3.3 Ví dụ …………………………………………………………22 Tài liệu tham khảo Tìm hiểu về phóng xạ 1.1 Bức xạ là gì? Mọi người và mọi vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Một người lớn trung bình là tập hợp của khoảng 4.000.000.000.000.000.000.000.000.000 nguyên tử oxy, hydro, cacbon, nito, phốt pho và các nguyên tố khác. Khối lượng nguyên tử tập trung ở phần hạt nhân nguyên tử mà độ lớn của nó chỉ bằng một phần tỷ của nguyên tử. Xung quanh hạt nhân hầu như là khoảng trống, ngoại trừ những phần tử rất nhỏ mang điện tích âm quay xung quanh hạt nhân được gọi là electron. Các electron quyết định tính chất hoá học của một chất nhất định. Nó không liên quan gì với hoạt độ phóng xạ. Hoạt độ phóng xạ chỉ phụ thuộc vào cấu trúc hạt nhân. Một nguyên tố được xác định bởi số lượng Proton trong hạt nhân. Hydro có 1 proton, Heli có 2, Liti có 3, Berili có 4, Bo có 5 và Cacbon có 6 proton. Số lượng Proton nhiều hơn, thì hạt nhân nặng hơn. Thori có 90 proton, Protatini có 91 và Urani có 92 proton được xem là những nguyên tố siêu Urani. Số lượng các nơtron quyết định hạt nhân có mang tính phóng xạ hay không. Để các hạt nhân ổn định, số lượng nơtron trong hầu hết mọi trường hợp đều phải lớn hơn số lượng Protron một ít. Ở các hạt nhân ổn định protron và nơtron liên kết với nhau bởi lực hút rất  mạnh của hạt nhân mà không phần tử nào thoát ra ngoài. Trong trường hợp như vậy, hạt nhân sẽ tồn tại bền vững. Tuy nhiên mọi việc sẽ khác đi nếu số lượng nơtron vượt khỏi mức cân bằng. Trong trường hợp này, thì hạt nhân sẽ có năng lượng dư và đơn giản là sẽ không liên kết được với nhau. Sớm hay  muộn nó cũng phải xả phần năng lượng dư thừa đó. Hạt nhân khác nhau thì việc giải thoát năng lượng dư cũng khác nhau, dưới dạng các sóng điện từ và các dòng phân tử. Năng lượng đó được gọi là bức xạ. 1.2 Sự phân rã phóng xạ là gì? Quá trình mà nguyên tử không bền giải thoát năng lượng dư của nó gọi là sự phân rã phóng xạ. Hạt nhân nhẹ, với ít Proton và nơtron trở lên ổn định sau một lần phân rã. Khi một nhân nặng như Radi hay Urani phân rã, những hạt nhân mới được tạo ra có thể vẫn không ổn định, mà giai đoạn ổn định cuối cùng chỉ đạt được sau một số lần phân rã. Ví dụ: Urani 238 có 92 proton và 146 nơtron luôn mất đi 2 proton và 2 nơtron khi phân rã. Số lượng proton còn lại sau một lần Urani phân rã là 90, nhưng hạt nhân có số lượng proton 90 lại là Thori, vì vậy Urani 238 sau một lần phân rã sẽ làm sinh ra Thori 234 cũng không ổn định và sẽ trở thành Protatini sau một lần phân rã nữa. Hạt nhân ổn định cuối cùng là chì chỉ được sinh ra sau lần phân rã thứ 14. Quá trình phân rã này xảy ra đối với nhiều hạt nhân phóng xạ có ở trong môi trường. 1.3 Đơn vị hoạt độ phóng xạ (Becquerel) là gì? Hoạt độ phóng xạ chỉ khả năng phát ra bức xạ của một chất. Hoạt độ không có nghĩa là cường  độ của bức xạ được phát ra hay những rủi ro có thể xảy ra đối với sức khoẻ con người. Nó được quy định bằng đơn vị hoạt độ Becquerel (Bq), phỏng theo tên một nhà vật lý người Pháp, Henri Becquerel. Hoạt độ phóng xạ của một tập hợp các hạt nhân phóng xạ được tính bởi số các phân rã trong nó trong một đơn vị thời gian. Nếu số lượng phân rã là 1/1 giây, thì hoạt độ của chất đó được tính là 1 Bq. Hoạt độ không liên quan gì đến kích thước hay khối lượng của một chất. Một nguồn phóng xạ có độ lớn bằng điếu thuốc lá dùng trong  một dụng cụ quan trắc phóng xạ có thể có hoạt độ lớn hơn hoạt độ cả thùng lớn chất thải phóng xạ hàng tỷ lần. Nếu số lượng phân rã xảy ra ở một lượng nhỏ của một chất là 1000/1 giây, hoạt độ của chất đó lớn hơn 100 lần so với một số lượng lớn chất chỉ có 10 phân rã xảy ra trong 1 giây. 1.4 Chu kỳ bán rã diễn ra như thế nào? Tốc độ phân rã được mô tả bằng  chu kỳ bán rã, đó là thời gian mà 1/2 số hạt nhân không bền của một chất nào đó phân rã.Chu kỳ bán rã là đơn nhất và không thay đổi cho từng hạt nhân phóng xạ và có thể là từ một phần giây đến hàng tỷ năm. Chu kỳ bán rã của Sulfua - 38 là 2 giờ 52 phút, của Radi - 223 là 11,43 ngày, và Cacbon - 14 là 5.730 năm. Trong các chu kỳ bán rã liên tiếp, hoạt độ chất phóng xạ giảm bởi phân rã từ 1/2, 1/4, 1/8, 1/16… so với hoạt độ ban đầu. Điều đó cho phép tính hoạt độ còn lại của bất cứ chất nào tại một thời điểm bất kỳ trong tương lai. Bức xạ có khắp nơi trong môi trường. Hầu hết các chất phóng xạ có đời sống dài đều sinh ra trước khi có Trái đất, vì vậy một lượng xạ luôn tồn tại là điều bình thường không thể tránh khỏi. Trong thế kỷ vừa qua, phông phóng xạ đã tăng lên không ngừng do các hoạt động như thử vũ khí hạt nhân và phát điện hạt nhân. Mức độ phóng xạ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: địa điểm, thành phần của đất, vật liệu xây dựng, mùa, vĩ độ, và mức độ nào đấy nữa là điều kiện thời tiết: mưa, tuyết, áp suất cao, thấp, hướng gió… tất cả đều ảnh hưởng đến phông bức xạ. Bức xạ được xem là tự nhiên hay nhân tạo là do nguồn gốc sinh ra của nó. 1.5 Bức xạ tự nhiên và bức xạ nhân tạo là gì? Bức xạ tự nhiên Một phần của phông phóng xạ là bức xạ vũ trụ đến từ không gian. Chúng hầu hết bị cản lại bởi khí quyển bao quanh Trái đất, chỉ một phần nhỏ tới được Trái đất. Trên đỉnh núi cao hoặc bên ngoài máy bay, độ phóng xạ lớn hơn nhiều so với ở mặt biển. Các phi hành đoàn làm việc chủ yếu ở độ cao có bức xạ vũ trụ lớn hơn mức bình thường ở mặt đất khoảng 20 lần. Các chất phóng xạ có đời sống dài có trong thiên nhiên thường ở dạng các chất bẩn trong nhiên liệu hoá thạch. Trong lòng đất, các chất như vậy không làm ai bị chiếu xạ, nhưng khi bị đốt cháy, chúng được thải vào khí quyển rồi sau đó khuyếch tán vào đất, làm tăng dần phông phóng xạ. Nguyên nhân chung nhất của sự tăng phông phóng xạ là Radon, một chất khí sinh ra khi Radi kim loại phân rã. Các chất phóng xạ khác được tạo thành trong quá trình phân rã tồn tại tại chỗ trong lòng đất, nhưng Radon thì bay lên khỏi mặt đất. Nếu nó lan toả rộng và hoà tan đi thì không gây ra nguy hại gì, nhưng nếu một ngôi nhà xây dựng tại nơi có Radon bay lên tới mặt đất, thì Radon có thể tập trung trong nhà đó, nhất là khi các hệ thống thông khí không thích hợp. Radon tập trung trong nhà có thể lớn hơn hàng trăm lần, có khi hàng ngàn lần so với bên ngoài. Loại trừ khí Radon, bức xạ tự nhiên không có hại đối với sức khoẻ. Nó là một phần của tự nhiên và các chất phóng xạ có trong cơ thể con người cũng là một phần của tạo hoá. Bức xạ nhân tạo Những hoạt động của con người cũng tạo ra các chất phóng xạ được tìm thấy trong môi trường và cơ thể. Một số chất đã được thải vào khí quyển do các vụ thử vũ khí hạt nhân và phần nhỏ hơn nhiều là các nhà máy điện hạt nhân. Những giới hạn phát thải được phép đối với nhà máy điện hạt nhân bảo đảm chúng không gây tác hại gì. Hầu hết các chất phóng xạ sinh ra từ phân hạch hạt nhân nằm trong chất thải phóng xạ và được lưu giữ cách biệt với môi trường. Hình 1: 'Chiếc bánh' mô tả sự đóng góp các nguồn bức xạ vào môi trường phóng xạ tự nhiên. Tất cả những đồng vị phóng xạ nói trên đều phát ra những tia phóng xạ có hại cho sức khoẻ như anpha, bêta, gamma v.v…, trong đó tác động đáng kể lên cơ thể con người là tia gamma. Trong “bức tranh” trên (Hình 1) mô tả sự phân bố sự đóng góp của các nguồn tia phóng xạ (gamma) trên mặt đất: 50% từ khí phóng xạ Radon, 20% từ đất đá trong vỏ Trái đất, 12% trong nước; lương thực; thực phẩm và 18% là tia vũ trụ. Cũng cần kể đến sự đóng góp của một phần rất nhỏ, khoảng 1%, các chất phóng xạ nhân tạo do sự phát tán bởi các vụ thử vũ khí nguyên tử trên không vào những năm 1960 của thế kỷ trước. 1.6 Chất phóng xạ được sử dụng như thế nào trong cuộc sống? Sản phẩm tiêu dùng Một số sản phẩm tiêu dùng cũng có chứa chất phóng xạ. Các ngôi nhà thường được trang bị các thiết bị phát hiện khói có chứa nguồn phóng xạ alpha nhỏ, sơn dạ quang, đồng hồ và các dụng cụ cũng có chất phóng xạ tác động vào chất phôtpho làm nó sáng lên. Công nghiệp Nhiều người phải tiếp xúc hàng ngày với các vật liệu phóng xạ trong rất nhiều ngành công nghiệp. Con mắt bức xạ nhìn được mọi thứ được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau, thường để bảo đảm an toàn cho con người. Tia X được dùng để soi hành lý tại các sân bay, kiểm tra các khuyết tật mối hàn và các vết hàn hoặc các vết nứt các trong công trình xây dựng, các đường ống và các cấu trúc khác. Trong quá trình kiểm tra, nó có thể giúp theo dõi những bất thường trong độ dày của sản phẩm giấy, của phim nhựa và các lá kim loại. Bức xạ được dùng đo mức độ chất lỏng trong các bồn chứa lớn. Nông nghiệp Bức xạ mạnh đã được sử dụng thành công trong việc phát triển 1500 giống cây lương thực và cây trồng khác cho sản lượng cao hơn, chống chịu tốt hơn với điều kiện thiên nhiên và sâu bệnh. Bức xạ được dùng để kiểm soát ruồi Tsetse ở Zambia, ruồi hại hoa quả ở Mexico và sâu cuốn lá ở Nam Mỹ và Bắc Phi. Trong kỹ thuật vô sinh côn trùng, côn trùng đực được đem chiếu xạ làm cho chúng bị mất khả năng sinh sản trước khi thả chung với côn trùng cái, thế hệ sau sẽ không được sinh ra. Không giống các hoá chất diệt côn trùng, biện pháp này không gây ô nhiễm và có mức tác dụng chọn lọc cao. Bức xạ trị bệnh Trong lĩnh vực y tế, các ứng dụng bức xạ hầu hết được dựa vào khả năng của chất bức xạ cho phép nhìn xuyên qua và khả năng diệt các tế bào của các bức xạ mạnh. Ở nhiều nước, phụ nữ trung niên được kiểm tra bằng thiết bị chụp để theo dõi bệnh ung thư vú. Nha sỹ dùng thiết bị chụp hàm để phát hiện các dị thường của xương hàm. Xương được chụp để phát hiện các hiện tượng sai khớp hay gẫy xương. Có khi điều trị cần phải chẩn đoán bằng cách tiêm chất phóng xạ vào cơ thể. Bức xạ có thể được dùng riêng để chữa ung thư hay được sử dụng hỗ trợ cho điều trị bằng phẫu thuật hoặc hoá chất. Chẩn đoán sớm Nhiều căn bệnh được phát hiện sớm bằng chụp X quang còn có thể chữa được. Khi tia X vào cơ thể, nó tạo một hình ảnh có những vùng tối hơn và có những vùng sáng hơn, cho phép chụp các cơ quan nội tạng để chẩn đoán bệnh. Xương được tạo hình ảnh rất rõ trên phim nhưng để kiểm tra ruột hoặc sụn, bệnh nhân thường được tiêm, uống hoặc đưa vào cơ thể một chất tương phản, chất đó sẽ đọng lại ở nơi sẽ chụp và do tính dễ hấp thu bức xạ đó sẽ cho hình ảnh rất rõ về bộ phận được chụp trên phim X quang. Xạ trị Khi cần nguồn xạ năng lượng lớn hơn X quang như trong xạ trị, thì người ta dùng thiết bị Telecobalt, hay gần đây hơn là dùng máy gia tốc tuyến tính. Máy gia tốc tuyến tính truyền chùm electron năng lượng cao vào sâu trong khối tế bào cần điều trị như các khối u. Vì chùm tia electron rất dễ căn chuẩn, nó chiếu thẳng vào các khối u và phá huỷ khối u trong thời gian vài tuần mà không gây tổn hại gì nhiều cho tế bào xung quanh hoặc cho da. Các tế bào xung quanh nếu bị ảnh hưởng sẽ có thời gian hồi phục giữa các đợt điều trị. Khi cần thiết, máy gia tốc tuyến tính có thể chụp ảnh các cơ quan nội tạng với hình ảnh rõ hơn nhiều so với chụp X quang. Một hình thức khác nữa của xạ trị là điều trị hocmôn tuyến giáp và một số dạng u giáp trạng. Bệnh nhân được uống một dung dịch có chứa iôt 131, chất này đi vào tuyến giáp và tạo ra nội xạ trị. Trong trường hợp đặc biệt, một nguồn xạ nhỏ liên tục được đưa vào trong cơ thể bên cạnh vùng cần điều trị để thực hiện vùng điều trị ngắn tại chỗ. Chiếu xạ khử trùng và bảo quản thực phẩm Nguồn phóng xạ rất mạnh có thể được sử dụng để khử trùng các dụng cụ như dụng cụ phẫu thuật, găng tay, những dụng cụ không thể khử trùng bằng nhiệt độ cao. Một số loại thuốc cũng được khử trùng bằng chiếu xạ; thực phẩm cũng có thể chiếu xạ để bảo quản được lâu hơn. Hiện nay khoảng 20% thực phẩm bị hỏng trước khi đến được với người tiêu dùng trong khi thực phẩm chiếu xạ cũng có thể bảo quản nhiều tháng. Chiếu xạ thực phẩm còn loại trừ được các ký sinh trùng và khuẩn có hại. Thực phẩm đã được chiếu xạ không mang tính phóng xạ và không nguy hại đối với người tiêu dùng. Hình 2: Vật liệu phóng xạ có thể có ảnh hưởng đến con người thông qua một loạt các tuyến đường. Nguồn ô nhiễm và mức độ ô nhiễm Nguồn ô nhiễm Ô nhiễm phóng xạ thường là kết quả của một tràn, tai nạn trong quá trình sản xuất hoặc sử dụng các nuclit phóng xạ(đồng vị phóng xạ), một hạt nhân không ổn định mà có quá nhiều năng lượng. Ô nhiễm có thể xảy ra từ khí phóng xạ, chất lỏng hoặc các hạt. Ví dụ, nếu một hạt nhân phóng xạ sử dụng trong y học hạt nhânlà vô tình đổ, vật liệu có thể được lây lan của mọi người khi họ đi bộ xung quanh. Ô nhiễm phóng xạ cũng có thể là một kết quả tất yếu của quá trình nhất định, chẳng hạn như việc phát hành của phóng xạ xenontrong tái chế nhiên liệu hạt nhân . Trong trường hợp đó chất phóng xạ không thể có, nó có thể được pha loãng với nồng độ an toàn. bụi phóng xạ hạt nhân là sự phân bố của ô nhiễm phóng xạ bởi một vụ nổ hạt nhân . Đối với một cuộc thảo luận về ô nhiễm môi trường do alpha phát thải xin vui lòng xem nguyên tố nhóm actini trong môi trường . Ngăn chặn những gì là sự khác biệt giữa vật liệu phóng xạ từ ô nhiễm phóng xạ. Vì vậy, chất phóng xạ trong container được niêm phong và không đúng được gọi là ô nhiễm, mặc dù các đơn vị đo lường có thể là như nhau. 2.2 Mức độ ô nhiễm Trong thực tế không có những điều như không phóng xạ. Không chỉ là toàn bộ thế giới liên tục bắn phá bởi các tia vũ trụ , nhưng mọi sinh vật sống trên trái đất có chứa một lượng đáng kể củacarbon-14 và phần lớn (bao gồm cả con người) có chứa một lượng đáng kể kali-40 . Các mức phóng xạ không gây hại hơn nữa ánh sáng mặt trời, nhưng cũng như số lượng quá nhiều ánh sáng mặt trời có thể nguy hiểm, do đó, cũng có thể cấp quá nhiều bức xạ. Mức độ ô nhiễm thấp Các mối nguy hiểm cho con người và môi trường khỏi ô nhiễm phóng xạ phụ thuộc vào bản chất của các chất ô nhiễm phóng xạ, mức độ ô nhiễm, và mức độ của sự lây lan của ô nhiễm. Mức độ thấp gây nguy cơ ô nhiễm phóng xạ ít, nhưng vẫn có thể được phát hiện bởi thiết bị đo bức xạ.Trong trường hợp cấp thấp ô nhiễm bởi các chất đồng vị với một nửa cuộc đời ngắn, các khóa học tốt nhất của hành động có thể chỉ đơn giản cho phép các tài liệu để tự nhiên phân rã . đồng vị sống dài hơn, nên được làm sạch và xử lý đúng cách, bởi vì ngay cả một mức độ rất thấp của bức xạ có thể được đe dọa khi tiếp xúc lâu dài với nó. Mức độ ô nhiễm cao mức độ ô nhiễm cao có thể gây rủi ro lớn cho người dân và môi trường. Mọi người có thể được tiếp xúc với bức xạ mức độ nguy hiểm tiềm tàng, cả bên ngoài và nội bộ, từ sự lây lan của nhiễm bẩn sau một tai nạn (hoặc một khởi đầu có chủ ý ) liên quan đến một lượng lớn chất phóng xạ. Cáchiệu ứng sinh học của tiếp xúc bên ngoài để ô nhiễm phóng xạ nói chung là giống như những người từ một nguồn bức xạ bên ngoài không liên quan đến chất phóng xạ, chẳng hạn như x-ray , máy móc, và phụ thuộc vào liều lượng hấp thụ . Xử lý đất nhiễm phóng xạ 3.1 Sơ lược Quy trình để tách các chất ô nhiễm kim loại phóng xạ và nguy hại từ các loại đất Một phương pháp xử lý chất thải (2) bị ô nhiễm hòa tan, các chất độc hại hoặc phóng xạ đặc trưng bởi các bước sau: (1) tách một phần của vật liệu chất thải bị ô nhiễm và xác định phạm vi kích thước hạt của phần bị ô nhiễm nghiêm trọng của vật liệu; (2) xác định những phần của vật liệu chất thải đang bị ô nhiễm và cách ly vật chất, cung cấp vật liệu chất thải bị ô nhiễm (19) và vật liệu chất thải dùng một lần (18), (3) đi qua các vật liệu chất thải ô nhiễm thành một bộ máy giường tầng sôi (16), nơi chứa dung dịch nước lọc (21), có một thành phần hóa học hiệu quả để hòa tan các chất gây ô nhiễm có trong các vật liệu thải bị ô nhiễm, nơi các vật liệu thải bị ô nhiễm (19), (24) có chứa solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng các loài, và bùn thải của một rò rỉ các giải pháp có chứa dùng một lần, làm sạch chất thải (32), (4) loại bỏ rò rỉ các giải pháp ( 24) từ bùn thải bị ô nhiễm nghiêm trọng, để cung cấp các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước (27) có chứa solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng các loài, và chất thải rắn; và (5) đi qua các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước (27) từ bước (4) thông qua một bộ máy loại bỏ ion (38) có hiệu quả để loại bỏ các loài solubilized, bị ô nhiễm nghiêm trọng từ các giải pháp rò rỉ các dung dịch nước, để cung cấp làm sạch, dung dịch nước rò rỉ các giải pháp (21).  2.  được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm phóng xạ chứa các loại, trong đó có ít nhất một trong radium phóng xạ, phóng xạ uranium, phóng xạ thori tồn tại ở nồng độ của hơn 5 picocuries / gram, và loại bỏ ion bộ máy (38) được chọn từ một cột trao đổi ion có chứa các vật liệu trao đổi ion 3.  đặc trưng ở chỗ sau khi bước (4), nước được thêm vào các chất thải rắn, để cung cấp một hỗn hợp của nước bị ô nhiễm còn lại và làm sạch vật liệu thải, nơi mà các nước bị ô nhiễm được truyền qua bộ máy loại bỏ ion trong bước ( 5), và chất thải được làm sạch khô.  4. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, đặc trưng ở chỗ, làm sạch dung dịch nước rò rỉ các giải pháp từ bước (5) được thông qua thông qua một bộ máy thẩm thấu ngược (42), để cung cấp: (a) làm sạch, tập trung, giải pháp rò rỉ các dung dịch nước có thành phần hóa học có hiệu quả để rò rỉ các chất gây ô nhiễm có trong các tài liệu xác định trong bước (2), trong đó dung dịch nước rò rỉ các giải pháp được thông qua để bước (3), và (b) nước tinh khiết, được thêm vào các chất thải rắn tách biệt trong bước (4).  5. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong đó các vật liệu bị ô nhiễm (19) là bộ máy thông qua thành giường tầng sôi trong bước (3) có kích thước hạt dưới 420 micro mét.  6. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa radium phóng xạ, và lọc các dung dịch nước được sử dụng trong bước (3) được chọn từ nhóm bao gồm acid hydrochloric, acid nitric, cacbonat natri, clorua natri, và hỗn hợp của chúng.  7. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa phóng xạ uranium, và lọc các dung dịch nước được sử dụng trong bước (3) được chọn từ nhóm bao gồm acid hydrochloric, acid nitric, acid sulfuric, cacbonat natri, clorua natri, và hỗn hợp của chúng.  8. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa thori phóng xạ, và lọc các dung dịch nước được sử dụng trong bước (3) được chọn từ nhóm bao gồm acid hydrochloric, acid nitric, acid sulfuric, và hỗn hợp của chúng.  9. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong đó các vật liệu bị ô nhiễm thông qua thành bộ máy giường tầng sôi trong bước (3) có mật độ từ 1,4 g / ml đến 3,2 g / ml, và kích cỡ một hạt dưới 420 micro mét, và trong bước ( 5), một cột trao đổi ion được sử dụng để cung cấp các giải pháp làm sạch rò rỉ các dung dịch nước.  10. Phương pháp yêu cầu bồi thường 1, được đặc trưng trong chất thải bị ô nhiễm có chứa ít nhất một trong những phóng xạ radium và uranium phóng xạ, các chất phóng xạ được truyền thông qua bộ máy giường tầng sôi trong bước (3) và có kích thước hạt dưới 420 micro mét, và một ion cột trao đổi được sử dụng trong bước (5) để cung cấp giải pháp làm sạch rò rỉ các dung dịch nước.  Mô tả: Phương pháp này liên quan đến một phương pháp phục hồi đất phóng xạ bằng cách khảo nghiệm phóng xạ ban đầu, quét, tách sôi, loại bỏ ion chọn lọc, và tập trung. Sự ô nhiễm đất, quặng, hoặc các vật liệu khác với các loại phóng xạ, chẳng hạn như radium, uranium, và thori, là một vấn đề môi trường chung. Trong số lượng lớn trường hợp, ô nhiễm phóng xạ không phải là đồng