Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng

Khuyến mại là cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất hay lợi ích phi vật chất. Khoản 1 điều 88 luật thương mại năm 2005 quy định: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xức tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Theo quy định này ngoài những đặc điểm chung của hoạt động xúc tiến thương mại, khuyến mại là một hoạt động xúc tiên thương mại có đặc điểm riêng cho phép phân biệt với các hình thức xúc tiên thương mại khác là dành cho khách hàng những lợi ích nhât định để tác động tới thái độ và hành vi mua bán hàng hóa của họ. So với luật thương mại năm 1997, luật thương mại năm 2005 khi định nghĩa về khuyến mại có bổ sung thêm hai điểm vè mục đích của khuyến mại và cách thức khuyến mại thông qua qaun hệ dịch vụ. cụ thể là mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng mà còn xúc tiên việc mua hàng. Mặc dù, khuyến mại để bán hàng là hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu để cạnh tranh mở rộng thị trường nhưng đối với các doanh nhân thương mại, việc khuyến mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu tất yếu cần thiết để hoàn thành kế hoạch kinh doanh.

doc17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6935 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 1 I. Tìm hiểu các hình thức khuyến mại 1 1. Khái niệm và đặc điểm của hình thức khuyến mại. 1 2. Các hình thức khuyến mại 2 3. Các nguyên tắc khi thực hiện các hình thức khuyến mại. 5 II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH THỨC KHUYẾN MẠI. 5 1. Một số vấn đề về áp dụng hình thức khuyến mại giảm giá. 6 2. Hình thức khuyến mại thông qua các chương trình may rủi 9 3. Qui định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại gặp khá nhiều vướng mắc khi thi hành. 10 III. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI. 12 1. Sớm nghiên cứu, xem xét việc hủy bỏ quy định nghĩa vụ nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng. 12 2. Sớm nghiên cứu việc hủy bỏ các qui định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, hạn mức về thời gian thực hiện khuyến mại. 13 3. Để đảm bảo tính trung thực về giải thưởng và chọn người trúng thưởng trong các chương trình khuyến mại mang tính may rủi,cần bổ sung qui định về trách nhiệm cá nhân của thương nhân hoặc người đại diện hợp pháp của thương nhân và trách nhiệm cá nhân của người được giao tổ chức chương trình khuyến mại. 14 C. KẾT LUẬN. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 A. MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để một doanh nghiệp có thể thành công trong lĩnh vực thương mại không những phải sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh, mẫu mã bắt mắt, cách phục vụ tốt,…mà một trong những yếu tố mang tính chất quyết định để khách hàng có đến với doanh nghiệp đó hay ko? có dùng sản phẩm của doanh nghiệp đó hay không? Đó chính là xúc tiến thương mại. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại chính là khuyến mại. Vậy chúng ta hãy “Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng”. B. NỘI DUNG I. Tìm hiểu các hình thức khuyến mại 1. Khái niệm và đặc điểm của hình thức khuyến mại. Khuyến mại là cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất hay lợi ích phi vật chất. Khoản 1 điều 88 luật thương mại năm 2005 quy định: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xức tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Theo quy định này ngoài những đặc điểm chung của hoạt động xúc tiến thương mại, khuyến mại là một hoạt động xúc tiên thương mại có đặc điểm riêng cho phép phân biệt với các hình thức xúc tiên thương mại khác là dành cho khách hàng những lợi ích nhât định để tác động tới thái độ và hành vi mua bán hàng hóa của họ. So với luật thương mại năm 1997, luật thương mại năm 2005 khi định nghĩa về khuyến mại có bổ sung thêm hai điểm vè mục đích của khuyến mại và cách thức khuyến mại thông qua qaun hệ dịch vụ. cụ thể là mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng mà còn xúc tiên việc mua hàng. Mặc dù, khuyến mại để bán hàng là hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu để cạnh tranh mở rộng thị trường nhưng đối với các doanh nhân thương mại, việc khuyến mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu tất yếu cần thiết để hoàn thành kế hoạch kinh doanh. Theo quy định của Luật thương mại có những đặc điểm cơ bản sau: - Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân. Quan hệ dịch vụ này hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ. - Cách thức xúc tiến thương mại: Là dành cho những khách hàng những lợi ích nhất định. Tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy thuộc điều kiện kinh phí dành cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá… hoặc lợi ích phi vật chất khác. - Mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc mua bán hàng hóa vfa cung ứng dịch vụ. Để thực hiện mục đích này, các đợt khuyến mại có thể hưởng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu sản phẩm mới, kích thích trung gian phân phối chú ý hơn nữa đến hàng hóa của doanh nghiệp, tăng cường hàng đặt mua… thông quan đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. 2. Các hình thức khuyến mại Điều 92 luật thương mại năm 2005 và từ điều 7 đến điều 13 của nghị định số 37 / 2006/ NĐ – CP ngày 04/04/2006 quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, các hình thức khuyến mại được áp dụng phổ biến trong hoạt động thương mại bao gồm: hàng mẫu; tặng quà; giảm giá; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi; bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi và tổ chức các sự kiện vì mục đích khuyến mại. Các quy định về hình thức khuyến mại là cơ sở pháp lý để thương nhân dành lợi ích cho khách hàng theo những cách thức khác nhau, nhằm mục đích xúc tiến mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. a- Hàng mẫu: Hàng mẫu là hình thức khuyến mại , theo đó thương nhân đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Hàng mẫu thường được sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu một sản phẩm mới, hoặc sản phẩm đã cải tiến, do vậy hàng hóa đưa cho khách hàng dùng thử là hàng đang bán hoặc sẽ được bán trên thị trường. cách thức khuyến mại bằng hàng mẫu không nhất thiết phải gắn liền với hành vi mua bán của khách hàng và không bị hạn chế vè số lượng, giá trị hàng mẫu, thời gian phát tặng hàng mẫu cho khách. b-Tặng quà : Thương nhân được phép tặng quà, cung ứng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền để thực hiện mục tiêu xúc tiến thương mại. Hàng hóa, dịch vụ dùng làm quà tặng có thể là hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân đang kinh doanh hoặc là hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác. Việc pháp luật cho phép sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác để phát tặng cho phép khuyến khích sự liên kết xúc tiến thương mại của các thương nhân nhằm khai thác tối đa. Việc tặng quà trong trường hợp này không chỉ có ý nghĩa thúc đẩy hành vi mua bán, sử dụng dịch vụ mà thương nhân còn có cơ hội quảng cáo, giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ của nhau. Theo quy định của pháp luật, tặng quà được thực hiện đối với khách hàng có hành vi mua bán hàng hóa, hoặc sử dụng dịch vụ của thương nhân, nhưng cũng có thể không gắn với hành vi mưa bán hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ. Hạn mức tối đã về giá trị quà tặng, giá trị dịch vụ tặng cho khách hàng không bị hạn chế theo đơn giá hàng hóa, dịch vụ, tức là có thể “ mua một tặng một” hàng hóa cùng loại hoặc “mua hai tặng một” nhưng tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại cho một chương trình không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến ,mại. Quy định này có mục đích vừa bảo đảm tính chủ động cho thương nhân thực hiện khuyến mại, vừa ngăn ngừa hành vi bán phá giá để cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc tặng quà cho khách hàng. c- Giảm giá : Giảm giá là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng dịch vụ bình thường trước đó được áp dụng trong thời gian khuyến mại mà thương nhân đã đăng kí hoặc thông báo. Để ngăn ngừa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh, việc giảm giá phải tuân thủ các quy định về hạn mức tối đa như sau: * Quy định về hạn mức giảm giá tính theo đơn giá: mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50 % giá của hàng hóa, dich vụ đó ngay trước khi khuyến mại ( điều 6, khoản 1 điều 9 nghị định số 37/ 2006………). Nếu hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của chính phủ cụ thể là : không được giảm giá đối với hnagf hóa, dịch vụ do nhà nước quản lý giá cụ thể, không được giảm giá xuống thấp hơn mức giá tối thiểu đối với hàng hóa, dịch vụ nhà nước quy định khung giá hoặc giá tối thiểu. * Quy định về hạn mức thời gian thực hiện giảm giá: thời gian thực hiện giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ không được vượt quá 90 ngày/ năm và một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45 ngày. Hạn mức này chỉ áp dụng đối với hình thức giảm giá để khuyến mại. * Quy định về hạn mức khuyến mại tính cho cả đợt khuyến mại : tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại. d - Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ. Là hình thức khuyến mại theo đó khách hàng được sử dụng phiếu mua hàng có mệnh giá cụ thể để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống ban hàng của thương nhân. Phiếu sử dụng dịch vụ cho phép sử dụng dịch vụ miễn phí hoặc với giá rẻ hơn theo điều kiện do nhà cung ứng dịch vụ đưa ra. Cũng giống như “ giảm giá” ở hình thức khuyến mại này giá trị vật chất dùng để khuyến mại không được vượt quá 50% giá trị của đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại trước thời gian khuyến mại và tổng giá trị của hàng hóa, đơn vị dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng được khuyến mại. e - Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi. Theo quy định tai khoản 5 điều 92 luật thương mại năm 2005: “Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố ”. Theo đó việc mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ chỉ mang lại cho khách hàng quyền dự thi chờ cơ hội nhận giải thưởng do thương nhân trao tặng. Phiếu dự thi có thể mang lại giải thưởng hoặc không mang lại lợi ích nào cho khách hàng, phụ thuộc vào kết quả dự thi của họ. Khác với hình thức khuyến mại bằng phiếu mua hàng, việc khuyến mại bằng phiếu dự thi không bị giới hạn bởi hạn mức giá trị tính theo đơn giá hàng hóa nhưng cũng phải đảm bảo quy định tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến mạiCác hình thức khuyến mại mang tính may rủi như bốc thăm, cào số trúng thưởng, bóc mở sản phẩm trúng thưởng, vé số dự thưởng…được thực hiện gắn liền với việc mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ. hình thức khuyến mại này chứa đựng yếu tố thụ động, may rủi của khách hàng trong việc nhận những lợi ích do thương nhân trao tặng cho nhưng thương nhân khuyến mại lain rất chủ động trong việc chuanat\r bị cơ cấu giải thưởng, số lượng, giá trị giải thưởng, thậm chí cả địa bàn và thời gian xuất hiện giải thưởng. chính vì vậy thương nhân khuyến mại có thể lợi dụng sự may rủi có thể xảy ra gian lân về giải thưởng. f- Tổ chức trương trình khách hàng thường xuyên Ngoài ra thương nhân có thể tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí… có thể là lợi ích phi vật chất mà thương nhân dành khuyến mại cho khách hàng, cũng có thể nhằm hướng tới khách hàng mục tiêu của thương nhân. Việc thực hiện các hoạt động này cũng cần phải tuân thủ theo các quy định của Bộ thương mại. g- Các hình thức khuyến mại khác nếu được cư quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận. 3. Các nguyên tắc khi thực hiện các hình thức khuyến mại. Điều 4 Nghị định số 37/ 2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại Quy định nhằm đảm bảo các nguyên tắc khuyến mại gồm có: Trung thực, công khai, minh bạch: Chương trình khuyến mại phải được thực hiện hợp pháp, trung thực, công khai, minh bạch và không được xâm hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, của các thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác. Không phân biệt đối xử: Không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng tham gia chương trình khuyến mại trong cùng một chương trình khuyến mại. Hỗ trợ khách hàng: Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại phải bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa vụ giải quyết rõ ràng, nhanh chóng các khiếu nại liên quan đến chương trình khuyến mại (nếu có). Chất lượng hàng hóa, dịch vụ: Thương nhân thực hiện khuyến mại có trách nhiệm bảo đảm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng dùng để khuyến mại. Không lạm dụng lòng tin: Không được lợi dụng lòng tin và sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại nhằm phục vụ cho mục đích riêng của bất kỳ thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân nào. Cạnh tranh lành mạnh: Việc thực hiện khuyến mại không được tạo ra sự so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch và của thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Không khuyến mại thuốc chữa bệnh: Không dược dùng thuốc chữa bệnh cho người, kế cả các loại thuốc đã được phép lưu thông để khuyến mại. II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH THỨC KHUYẾN MẠI. Theo Luật Thương mại 2005 của Việt Nam, các hình thức khuyến mại bao gồm: Dùng thử hàng mẫu miễn phí; Tặng quà; Giảm giá; Tặng phiếu mua hàng; Phiếu dự thi; Các chương trình may rủi; Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên; Chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí. Trong thực tế, các hình thức này được các thương nhân - doanh nghiệp áp dụng khá linh hoạt và có sự kết hợp giữa nhiều hình thức một lúc, như vừa giảm giá vừa tặng quà, vừa giảm giá vừa bốc thăm trúng thưởng, giảm giá hoặc tặng quà trong những "giờ vàng mua sắm" nhất định trong ngày (thường là giờ thấp điểm để kích thích tiêu dùng)... Giảm giá thường là hình thức được các doanh nghiệp áp dụng nhiều nhất. Ví dụ điển hình tại Hà Nội, các hình thức khuyến mãi chính được các đơn vị, tổ chức, cá nhân áp dụng nhiều nhất là: Thẻ cào trúng thưởng, mua hàng tặng thêm quà khuyến mãi, giảm giá. Trong đó, chương trình giảm giá được nhiều người tiêu dùng quan tâm nhất. Chỉ cần dạo qua một vòng các phố chuyên kinh doanh đồ quần áo như: Phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Phạm Ngọc Thạch, Chùa Bộc hoặc phố đồ gia dụng như: Hai Bà Trưng, Nguyễn Lương Bằng..., người tiêu dùng bắt gặp không ít các khẩu hiệu lớn "Sale off 10 - 30%", "Hàng đại hạ giá", "Mua hàng có quà tặng"... để thu hút người tiêu dùng. Tuy nhiên, các hình thức khuyến mại trên thực tế còn có một số vấn đề sau ( Do hạn chế khách quan về khả năng nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề và dung lượng đề tài, nên bài viết chỉ nêu thực tiễn áp dụng các hình thức khuyến mại với một số vấn đề chủ yếu dưới đây): 1. Một số vấn đề về áp dụng hình thức khuyến mại giảm giá. Thời gian gần đây, hàng loạt chương trình khuyến mãi giảm giá được bung ra rầm rộ khắp phố phường. Nhưng không ít trong số đó chỉ là những “lời mời có cánh”, bởi rất hiếm tìm thấy món hàng có giá trị ở những nơi khuyến mãi giảm giá. Đáng lưu ý, chiêu thức khuyến mãi giảm giá không chỉ xảy ra phổ biến ở khu vực kinh doanh cá thể vốn khó quản lý, mà còn xuất hiện công khai ngay trong các siêu thị, trung tâm thương mại lớn. Theo thống kê của cơ quan chức năng và cả thông tin trên báo chí, không ít hàng hóa khuyến mãi là hàng kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ, có nguồn gốc nhập lậu. Đối với hàng hóa chính hãng có chất lượng thì bịt mắt người tiêu dùng tinh vi hơn bằng cách nâng giá bán hàng hóa trong thời gian khuyến mãi lên cao hơn giá cả thực tế rồi… giảm giá. Mức giảm giá thông thường từ 50%-70%, thậm chí 80%-90%, khiến người tiêu dùng nhầm tưởng mua được giá hời, chỉ khi sử dụng mới phát hiện ra đúng là… “tiền nào, của nấy” và đành ngậm ngùi khi có trường hợp “tiền mất, tật mang”. Khi áp dụng các hoạt động khuyến mại trong thực tiễn, đã có nhiều vấn đề nảy sinh. Để tránh việc khách hàng bị thiệt hại về quyền lợi khi tham gia các chương trình khuyến mại, các nhà soạn luật đã có những chỉnh lý thích hợp để đảm bảo nguyên tắc khi thực hiện khuyến mại. Thời hạn giảm giá Nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay 30%, nhưng bảng đó được yết quanh năm, với mức giá là một con số tuyệt đối không thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá giảm và hành vi này được coi là lừa dối khách hàng. Bởi vậy, để tránh việc lừa dối khách hàng bằng giảm giả ảo, Nghị định 37 ngày 4/4/2006 của Việt Nam quy định: Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không được vượt quá 90 (chín mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45 (bốn mười lăm) ngày. Như vậy, các doanh nghiệp vẫn có thể quanh năm thực hiện giảm giá, nhưng là sự giảm giá luân phiên từng nhóm mặt hàng mà mình kinh doanh vẫn không vi phạm quy định. Hình thức giảm giá luân phiên thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có số mặt hàng kinh doanh lớn như các siêu thị; đối với các doanh nghiệp chuyên doanh áp dụng ở mức hạn chế hơn. Mức giảm giá Để tránh việc doanh nghiệp lợi dụng hình thức khuyến mại này để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ, pháp luật quy định: Mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc hết thời trang, muốn thực hiện "đại hạ giá" ở mức 60-80%. Do giá bán khuyến mại chỉ so sánh với giá "ngay trước thời gian khuyến mại" nên để thực hiện được điều này, doanh nghiệp phải chia làm nhiều chặng thời gian giảm giá (mỗi chặng có thể ngắn, hết chặng đầu có thể nâng lên cao hơn một chút và sau đó lại giảm mạnh ở chặng thứ hai) mà vẫn không trái với quy định. VÍ DỤ 1: Một chương trình khuyến mãi phạm luật? Trong dịp tết Nguyên đán năm 2010, Hãng Hàng không giá rẻ Jetstar Pacific Airlines (JPA) tung ra chương trình mua vé vào dịp giao thừa với giá 0 đồng() Tại Điều 6 Nghị định 37 của Chính phủ ngày 4/4/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại có quy định về "mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại". Và, khoản 1 Điều 9 Nghị định 37 cũng quy định rõ: "Trong trường hợp thực hiện khuyến mại bằng hình thức giảm giá thì mức giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại trong thời gian khuyến mại tại bất kỳ thời điểm nào phải tuân thủ quy định tại Điều 6 Nghị định này". Như vậy, giá vé máy bay khuyến mại giảm giá không được giảm thấp hơn 50% giá vé trước thời gian khuyến mại. Nên, chương trình khuyến mại bán vé với giá 0 đồng vào đêm 30 tết của Hãng Hàng không JPA là vi phạm quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại. Cụ thể là khoản 1 Điều 9 Nghị định 37. Nếu căn cứ vào khoản 5 Điều 46 Luật Cạnh tranh 2004 nêu trên, thì việc bán vé máy bay với giá 0 đồng của Hãng Hàng không JPA là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, cũng xin nói rõ nếu đây là trường hợp khuyến mãi bằng hình thức tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền, không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, thì được pháp luật cho phép. Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Trưởng ban Tuyên truyền Hội Luật gia TP HCM cho rằng: "Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 37, nếu gọi đây là chương trình khuyến mãi bán vé giảm giá thì JPA đã vi phạm pháp luật, còn xem đây là chương trình khuyến mãi tặng vé máy bay cho khách hàng và cung cấp dịch vụ không thu tiền, thì sẽ không vi phạm điều cấm của pháp luật". Thực tế, JPA đã gửi e-mail đến cho những khách hàng, trong đó có đoạn: "Chương trình khuyến mãi bắt đầu từ 00:01 ngày 14/2 và kết thúc vào lúc 12:00 ngày 14/2 hoặc khi vé được bán hết". Rõ ràng, đây là nội dung khẳng định chương trình khuyến mãi trên bán vé với giá 0 đồng dưới hình thức "lì xì" cho khách hàng. Và thực hư về câu chuyện JPA khuyến mãi 500 vé giá 0 đồng vào đêm giao thừa như thế nào vẫn đang còn là một dấu hỏi lớn từ phía hãng hàng không này. VÍ DỤ 2: VIETTEL CÓ “XÉ RÀO”, “PHẠM LUẬT”? “Chương trình “những số 6 may mắn” của Viettel Mobile được thực hiện từ 26/3/2006 đến 26/5/2006 với nội
Luận văn liên quan