Tính tất yếu khách quan về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chiến tranh, đây chính là nguyên nhân tạo cho con người Việt Nam bản lĩnh kiên cường không chịu khuất phục trước kẻ thù dù có lớn mạnh đến đâu. Có lẽ cũng chính chiến tranh làm cho cơ sở kinh tế của Việt Nam còn nghèo nàn lạc hậu so với các nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.Thế nhưng cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới diễn ra hết sức mạnh mẽ. Khi mà nền kinh tế thế giói đang phát triển như vũ bão thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu để giải quyết tốt vấn đề này chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn về hội nhập hay toàn cầu hoá. Phải biết tận dụng mặt tích cực và hạn chế mặt trái của nó, đi đôi với phát triển kinh tế nâng cao lực lượng sản xuất thì còn cần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp nhanh chóng nâng cao mức sống nhân dân, tạo ra công bằng xã hội. Chỉ khi nào thực hiện tốt được tất cả những nhiệm vụ căn bẳn trong thời kì này thì Việt Nam mới có thể thực hiện tốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

pdf20 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 15076 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính tất yếu khách quan về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tính tất yếu khách quan về thời kỳ quá độ lên cnxh ở việt nam a-lời mở đầu Chiến tranh, đây chính là nguyên nhân tạo cho con người Việt Nam bản lĩnh kiên cường không chịu khuất phục trước kẻ thù dù có lớn mạnh đến đâu. Có lẽ cũng chính chiến tranh làm cho cơ sở kinh tế của Việt Nam còn nghèo nàn lạc hậu so với các nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.Thế nhưng cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới diễn ra hết sức mạnh mẽ. Khi mà nền kinh tế thế giói đang phát triển như vũ bão thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu để giải quyết tốt vấn đề này chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn về hội nhập hay toàn cầu hoá. Phải biết tận dụng mặt tích cực và hạn chế mặt trái của nó, đi đôi với phát triển kinh tế nâng cao lực lượng sản xuất thì còn cần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp nhanh chóng nâng cao mức sống nhân dân, tạo ra công bằng xã hội. Chỉ khi nào thực hiện tốt được tất cả những nhiệm vụ căn bẳn trong thời kì này thì Việt Nam mới có thể thực hiện tốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. -NộI DUNG B.1-Lý LUậN i-tính tất yếu khách quan về thời kỳ quá độ lên cnxh ở việt nam 1) Tính tất yếu khách quan Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin mới chỉ dự đoán khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và chỉ ra điều kiện chung để biến khả năng đó thành hiện thực Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu khách quan vì những lý do sau đây : Một là,đặc điểm thời đại ngày nay-thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.Quá trình cải biến xã hội cũ,xây dựng xã hội mới-xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương duy ý chí,mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng xu thế phát triển đi lên là phù hợp với xu thế phát khách quan, là phù hợp với quy luật của lịch sử.Chủ nghĩa xã hội khoa học,tự do,dân chủ và nhân đạo mà chúng ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho tất cả những giá trị tiến bộ của nhân loại,đại diện cho lợi ích người lao động, là hình thái kinh tế-xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Nó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của con người và vì tiến bộ chung của loài người Hai là, đối với nước ta mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của con đường xã hội chủ nghĩa là hoà bình độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, chống áp bức, bóc lột, bình đẳng phồn thịnh văn minh 2) Khả năng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam Đặc điểm nổi bật nhất trong thời đại ngày nay là cách mạng kỹ thuật gắn với cách mạng khoa học , tạo thành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển hết sức mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ phát triển kinh tế của các nước. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa công nghệ cho phép cải tạo điều kiện phát triển con người, chuyển từ lao động cơ bắp sang lao động trí tuệ. Cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm đổi thay cơ cấu các ngành như công nghiệp nguyên tử, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp điện tử, công nghiệp vũ trụ, công nghiệp khai thác đại dương, sự phát triển của máy tính điện tử, người máy, kỹ thuật vi điện tử, vi sinh học ...Tất cả điều đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu tổ chức doanh các doanh nghiệp, nâng cao trình độ xã hội hoá và chi phối sự biến đổi cơ bản về quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện đó nó cho phép và buộc chúng ta phải tận dụng , khai thác , sử dụng tất cả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự ủng hộ, giúp đỡ và hợp tác của các nước, các tổ chức phi chính phủ về vốn, công nghệ, quản lý...Tạo điều kiện sớm đổi mới cơ sở kỹ thuật, cơ cấu kinh tế, phân công lao động,tạo thêm việc làm, chuyên môn hoá sản xuất... Sự giúp đỡ và hợp tác có hiệu quả bằng nhiều hình thức trong cá ngành, các lĩnh vực. Nguồn lao động dồi dào, truyền thống lao động cần cù, chịu khó, thông minh sáng tạo của dân tộc ta, tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, tiềm lực ban đầu về cơ sở vật chất – kĩ thuật, đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề,kết cấu hạ tầng... là những yếu tố hết sức quan trọng để mở rộng sự hợp tác , tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư là thế mạnh cho tăng chưởng kinh tế nhanh.Để khai thác, phát huy thế mạnh đó đòi hỏi phải có đường lối chính sách đúng đắn cùng với cơ chế quản lý thích hợp. Nhân dân ta hiểu được xu thế phát triển của xã hội loài người đã từng bị áp bức bóc lột, khát vọng giải phóng và vươn tới chế độ tốt đẹp hơn. Công cuộc đổi mới của đất nước có sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam( bao gồm chiến lược, sách lược, tổ chức thực tiễn, chính sách) định hướng đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường và điều kiện hợp tác đầu tư và phát triển kinh tế... giữ vững vị trí quyết định. Cuối cùng, kết quả bước đầu của sự đổi mới từ đại hội đảng lần thứ VI đến nay đã củng cố và khảng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là hoàn toàn đúng đắn Trong những nhân tố chủ quan và khách quan phân tích ở trên, thì nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định. Hơn nữa biến những khả năng thành hiện thực là một quá trình, nó tác động và đòi hỏi công dân, cũng như tập thể, từ cơ sở đế trung ương, trong tấtcả các lĩnh vực các nghành của đới sống kinh tế xã hội nước ta. II. những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ ở việt nam Nước ta quá độ lên CNXH từ điểm xuất phát thấp: nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lướng sản xuất lạc hậu, năng xuất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém, gây khó khăn, cản chở cho sự phát triển và tăng trưởng; thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn thấp là một trong các quôc gia nghèo đang phát triển. Vì vậy, những nhiệm vụ kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ cần phải thực hiện là: 1. Phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất – cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu trong nền kinh tế quốc dân.Đó là bước chuyển căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, trong đó then chốt là nghành chế tạo tư liệu sản xuất sở dĩ như vậy là vì : theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất TLSX, quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng của toàn bộ nền kinh tế,sự phát triển của các nghành chế tạo tư liếu sản xuất là cơ sở phát triển của nền kinh tế quốc dân. Phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần làm tốt những vấn đề cơ bản sau: Một là, phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì, khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, trong khi đó đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ nước ta còn nhỏ bé chất lượng còn thấp, khả năng của chúng ta về vốn, phương tiện nghiên cứu còn rất hạn hẹp. Vậy phương pháp chung cho sự phát triển khoa học công nghệ ở nước ta : phát huy những lợi thế đất nước, tận dụng mói khả năng để dạt trình độ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng nhiều nghành khoa học hơn, ở mức cao hơn, và phổ biến hơn những thành tựu khoa học công nghệ, từng bước phát triển nền kinh tế tri thức. Hai là, phải tạo được một điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học – công nghệ, việc xác định những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học - công nghệ chỉ phát triển được khi đảm bảo điều kiện kinh tế – xã hội cần thiết. Những điều kiện đó là : đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ có số lượng đủ lớn, chất lượng cao, đầu tư ở mức cần thiết, các chính sách kinh tế xã hội phù hợp. Trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, người lao động – lực lượng sản xuất không chỉ phải nâng cao trình độ văn hoá và khoa học công nghệ mà còn phải trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời là người tạo ra sự phát triển đó. 2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN Xây dựng và hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam suy cho cùng là tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế(TPKT)đều phát triển,từ đó phát huy tốt nhất vai trò của mỗi thành phần kinh tế Xử lý hài hoà mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các TPKT, từng bước phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Phương hướng cơ bản đó đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện QHSX phải tuân thủ theo quan điểm chỉ đạo sau đây: a. Xây dựng và hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN phải làm cho QHSX phù hợp hơn với các thành phần kinh tế, đồng thời thúc đẩy cải cách môi trường thể chế nhằm thực hiện các mục tiêu của sự nghịêp CNH, HĐH đất nước Trước hết, cần nhận thức rõ bản chất, nội dung, phạm vi và các hình thức và các hình thức biểu hịên của từng thành phần kinh tế. Cần thấy rằng đặc trưng kinh tế nước ta trong thời kỳ chuyển đổi là một cơ cấu động. Do vậy trong quá trình phát triển phải thừa nhận sự chuyển đổi giữa các thành phần cũng như những bước tiến hoặc bước lùi trong việc hoàn thiện QHSX ở mỗi một thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Theo hướng đó việc phát triển các thành phần kinh tế cần chú ýtới các vấn đề như: Đối với kinh tế tự nhiên phải chuyển sang kinh tế hàng hoá. Đối với sản hàng hoá nhỏ cần đẩy mạnh các hình thức liên kết, tổ chức quản lý và định hướng sự phát triển nhằm phục vụ sự phát triển chung. Đối với kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân cần tạo điều kiện để có thể phát huy hết tiềm lực của họ. Đối với kinh tế nhà nước cần sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có và vai trò của nó trong n nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN Đối với thành phần kinh tế tư bản có vốn đầu tư nước ngoài cần tạo môi trường đầu tư thông thoáng và cần bình đẳng đối sử với các doanh nghiệp trong nước Đồng thời với việc đổi mới sở hữu, muốn hoàn thiện đồng bộ các mặt của QHSX , phải chú ý nâng cao trình độ tổ chức quản lý và hoàn thiện các quan hệ phân phối một cách thích ứng trong các thành phần phù hợp với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo cơ chế mới. b. Xây dựng và hoàn thiện QHSX đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực điều tiết của nhà nước, thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu đang làm nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải kết hợp phân phối theo lao động và hưởng lợi theo tài. Phấn đấu để tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sả, vốn đóng góp cổ phần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu là phải đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao góp phần xoá đói giảm nghèo. Chấp nhận sự phân hoá giầu nghoè trong từng tầng lớp dân cư và giữa các vùng nhưng có giới hạn. Khuyến khích mọi người tạo việc làm chính đáng. Nghiêm cấm những hành vi bất chính, bòn rút của công, hà hiếp quần chúng lao động làm mất lòng tin của nhân dân và triệt tiêu động lực của người lao động. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu độc lập và đan xen sẽ tạo ra nhiều hình thức phân phối, tỷ lệ phân phối khác nhau về nguồn lực sản phẩm Quan hệ đối với tài sản bao gồm nhiều quyền khác nhau. Do vậy, cần phân biệt rõ các quyền này và gắn chúng với việc hưởng lợi trong phân phối kết quả sản xuất kinh doanh Phân phối vật phẩm vật phẩm tiêu dùng phải căn cứ vào lao động giản đơn và lao động phức tạp, khuyến khích nâng cao tay nghề lao động giản đơn, chú ý tới lao động của các nhà khoa học và quản lý. Phân phối dựa theo nguyên tắc thị trường không tránh khỏi sự bất bình đẳng trong thu nhập , mà hậu quả của nó là sự mất ổn định kinh tế, chính trị, xã hội như nhiều nước phát triển theo con đường kinh tế thị trường đã trải qua.Vì vậy phải có sự điều tiết của nhà nước thông qua thuế thu nhập và phúc lợi xã hội. Vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng cường khả năng điều tiết Vĩ mô của nhà nước nhằm điều hoà thu nhập, đảm bảo phúc lợi giữa các tầng lớp dân cư. c. Xây dựng và hoàn thiện QHSX, một mặt phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, mặt khác phải đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất tiêu biểu cho chế độ kinh tế xã hội đương thời,giữ vị trí thống trị chi phối còn trong thời kỳ quá độ chưa có thành phần kinh tế nào đủ mạnh để giữ vai trò thống trị chi phối các thành phần kinh tế khác.V.I.Lênin đã chỉ ra, các thành phần kinh tế chỉ là những mảng , những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập tương đối , vừa tác động lẫn nhau. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần,đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế vừa đan xen vừa cạnh tranh nhau, luôn vận động và chuyển đổi trong quá trình phát triển.Định hướng XHCN là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo. Thực tế các DNNN ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này kể cả về hiệu quả sản xuất kinh doanh,trình độ tổ chức quản lý và phương thức phân phối. Vì vậy, muốn Việt Nam cần phải tiếp tục sắp xếp lại , phát triển doanh nghiệp nhà nước một mặt phải đặt trong tương quan với nguồn lực nhà nước , một mặt phải đặt trong quan với các thành phần kinh tế khác. Về tổ chức quản lý phải chặt chẽ hơn, phải có chế độ phân phối hợp lý để vừa nâng cao mức sống người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất cho doanh nghiệp, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các DNNN cũng có nghĩa là nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó có nghĩa là củng cố tính chất xã hội chủ nghĩa trong thành phần kinh tế này trên tất cả các mặt của QHSX để tạo cho nó nhanh chóng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam. Đồng thời với việc thiết lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, hoàn thiện QHSX phải bảo đảm tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (TPKT) tạo điều kịên phát huy đầy đủ năng lực và vị trí của mỗi TPKT, hình thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững nếu các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng, có hiệu quả, có sức phát triển và cạnh tranh cao. Vấn đề này cần được thể hiện trong việc hoạch định các chính sách của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt : đối xử công bằng với mọi thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và đối xử khác nhau với các thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều dọc. d. Xây dựng và hoàn thiện QHSX phải tính đến yếu tố thời đại mà đặc trưng của nó là quá trình mở cửa và hội nhập với xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, hiện nay không một quốc gia nào đóng cửa mà có thể phát triển. Trong điều kiện mới, thông qua việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, các nước có thể tranh thủ, tận dụng nguồn lực của nước ngoài tạo ra những bước những bước nhảy vọt, đột biến trong sự phát triển rút ngắn của mình. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam những nguồn lực thu hút được từ bên ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới,năng suất lao động cao hơn đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về quan hệ sản xuất, điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển mang tính chất tuần tự theo tiến trình lịch sử, đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần phải có chính sách thông thoáng để thu hút các nguồn lực đó và biến chúng thành nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Xây dựng và hoàn thiện QHSX ở nước ta theo hướng phù hợp với điều kiện hội nhập phải tạo điều kiện cho các TPKT đều được bình đẳng tham gia vào các quan hệ kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, cần xoá bỏ những nhận thức không đúng đang ngăn cản sự tham gia của các thành phần kinh tế trong quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra sự thông thoáng cho các quan hệ kinh tế phát triển. Phải điều chỉnh lại các chính sách đối ngoại của mọi thành phần kinh tế.Sắp xếp,bố trí,tổ chứclại nền kinh tế,thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng và lợi thế sản xuất trong nước. Quan niệm về kinh tế mở để hội nhập không có nghĩa là chỉ mở cửa với bên ngoài mà còn mở cửa thị trường bên trong. Điều này có nghĩa là phát triển sản xuất kinh doanh cần tuân theo tiêu chuẩn của thị trường thế giới hàng hoá của Việt Nam phải không được thua trên sân nhà. Việc mở cửa bên trong như vậy cũng đòi hỏi sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong các quan hệ sở hữu, phân phối và điều hành trong quản lý ở tầm vĩ mô của nhà nước. Đó là điều kiện cần thiết để tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế để các chủ thể kinh tế có điều kiện phát huy những tiềm năng và lợi thế của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chất sản phẩm được nâng cao theo tiêu chuẩn quốc tế . Việc mở cửa, hội nhập với bên ngoài theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức và quan hệ kinh tế đối ngoại đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu lợi ích của các bên đối tác, phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác đòi hỏi phải đảm bảo phục vụ cho nhu cầu lợi ích quốc gia, dân tộc, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong qúa trình mỏ cửa,hội nhập, phải tăng cường và nâng cao năng lực quản lý công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước nhằm khắc phục những mặt tiêu cực do mở cửa gây ra, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật để khai thác tối ưu các nguồn lực bên ngoài và phát huy có hiệu quả nguồn lực bên trong, đáp ứng kịp thời các nhu cầu phát triển của nền kinh tế . 3. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại Kinh tế đối ngoại của mỗi quôc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thể hiện với nhiếu hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. a. kinh tế đối ngoại có vai trò to lớn: - Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế , nối liền thị trường trong nước với thị trường quốc tế và khu vực. - hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư - Góp phần tích luỹ vốn phục vụ quá trình CNH-HĐH - Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công cuộc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại trước hết chúng ta cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau nhằm đảm bảo bình đẳng và chủ quyền quốc gia về lãnh thổ, kinh tế, chính trị: .,bình đẳng .,Tôn trọng độc lập chủ quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau .,Giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã trọn b. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại Việt nam cần phát triển tất cả các hình thức như: ., Ngoại thương (xuất khẩu,nhập khẩu) ., Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất ( nhận gia công xây dựng xí nghiệp với sự hùn vốn và công nghệ nước ngoài, hợp tác sản xuất quốc tế... ., Hợp tác khoa học k
Luận văn liên quan