Tóm tắt Luận án Nghiên cứu áp dụng GTHL trong kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam

Tác giả Luận án đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam” với việc tìm hiểu các nhân tố thuộc nhận thức của các doanh nghiệp (DN) ảnh hưởng như thế nào đến sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý (GTHL) trong kế toán tại các DN Việt Nam, xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Qua kết quả nghiên cứu, Luận án sẽ đưa ra những kiến nghị, đề xuất với các cơ quan quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các DN thực hiện các công việc theo lộ trình phù hợp để thừa nhận và tăng cường áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam, hướng tới hội tụ kế toán

pdf12 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu áp dụng GTHL trong kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Tác giả Luận án đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam” với việc tìm hiểu các nhân tố thuộc nhận thức của các doanh nghiệp (DN) ảnh hưởng như thế nào đến sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý (GTHL) trong kế toán tại các DN Việt Nam, xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Qua kết quả nghiên cứu, Luận án sẽ đưa ra những kiến nghị, đề xuất với các cơ quan quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các DN thực hiện các công việc theo lộ trình phù hợp để thừa nhận và tăng cường áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam, hướng tới hội tụ kế toán quốc tế. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu nhận thức của các DN ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam, qua đó đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng cường sự ủng hộ và đẩy mạnh việc áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam. Mục tiêu cụ thể bao gồm: Thứ nhất, xây dựng và kiểm định các nhân tố thuộc nhận thức của các DN ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam. Thứ hai, đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam. Thứ ba, đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng cường sự ủng hộ và đẩy mạnh việc áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam. 3. Câu hỏi nghiên cứu - Câu hỏi 1: Những nhân tố nào thuộc nhận thức của các DN ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam? - Câu hỏi 2: Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố thuộc nhận thức của các DN đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam như thế nào? - Câu hỏi 3: Các DN, các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức và Hiệp hội cần làm gì để đẩy mạnh việc áp dụng GTHL trong kế toán ở Việt Nam? 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố thuộc nhận thức của DN đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam. 2  Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung: luận án nghiên cứu các nhân tố chính và là các nhân tố thuộc về sự nhận thức, cảm nhận, đánh giá của các DN Việt Nam ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tài chính, không nghiên cứu cho kế toán quản trị. + Về đối tượng khảo sát: tác giả tiến hành khảo sát tại các DN có lợi ích công chúng gồm các công ty đại chúng niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và các công ty đại chúng chưa niêm yết. Việc khảo sát được thực hiện chỉ riêng với các DN sản xuất kinh doanh, không khảo sát với các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và thực hiện khảo sát với các DN có qui mô lớn (với số vốn từ 120 tỷ trở lên). Dữ liệu nghiên cứu được thu thập thông qua khảo sát quan điểm của: nhà quản lý DN, giám đốc tài chính, quản lý tài chính, kế toán trưởng, trưởng phòng Tài chính Kế toán, người phụ trách kế toán (những người đại diện cho DN trên góc độ là đối tượng lập Báo cáo tài chính). + Về thời gian khảo sát: Luận án đã thực hiện điều tra, khảo sát thử trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến hết tháng 4 năm 2016 và khảo sát chính thức trong tháng 9, 10 năm 2016, thông qua bảng hỏi đối với người trả lời khảo sát. 5. Điểm mới của luận án Luận án xây dựng và kiểm định các nhân tố thuộc về nhận thức của các DN ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố thông qua phân tích hồi qui Binary Logistic. 6. Kết cấu luận án Luận án gồm có 5 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Tổng quan nghiên cứu Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận Chương 5: Các khuyến nghị và kết luận 3 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Giá trị hợp lýtrong kế toán 1.1.1 Sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý Giai đoạn đầu tiên, trong vòng từ 1850-1970: GTHL được hiểu là chi phí tái tạo tài sản của công ty. Tuy nhiên, chưa có một định nghĩa thống nhất chung về giá trị thị trường. Từ 1970-1990: Đây là giai đoạn mà sự xuất hiện của GTHL trong thời đại của sự phát triển các qui định và khái niệm. Từ 1990-2005: Sử dụng GTHL được phát triển đáng kể trong thời kỳ này ở Mỹ và ở hệ thống chuẩn mực kế toán (CMKT) quốc tế trong lĩnh vực hợp nhất kinh doanh. Giai đoạn 2005 đến nay: Năm 2005, IASB coi GTHL như là phương pháp đo lường hợp lý nhất. Tháng 9/2010, IASB công bố dự thảo IFRS 13 về GTHL và tháng 5/2011, IASB phát hành IFRS 13-Đo lường GTHL (Fair Value Measurement) (có hiệu lực từ 01/01/2015 hoặc sớm hơn do các nước lựa chọn). 1.1.2 Nội dung giá trị hợp lý 1.1.2.1 Định nghĩa giá trị hợp lý GTHL được định nghĩa theo quan điểm của IASB/FASB với những khía cạnh nổi bật như sau: (i) Giá đầu ra: Quan điểm của IASB và FASB nhấn mạnh đến cách tiếp cận theo giá đầu ra của tài sản và nợ phải trả - thể hiện trong định nghĩa GTHL - (ví dụ như: GTHL là giá bán của tài sản chứ không phải giá mua). (ii) Giao dịch giả định: Trong định nghĩa GTHL, giao dịch được giả định là được thực hiện và thực hiện trong điều kiện bình thường. Điều này có nghĩa là đơn vị không bị buộc phải thanh lý hay ép bán. (iii) Các bên tham gia thị trường: Các bên tham gia thị trường sẽ không nhất thiết phải xác định là các bên cụ thể. Trên cơ sở giả định các bên tham gia thị trường sẽ hành động với lợi ích kinh tế cao nhất có thể đạt được, đơn vị sẽ xác định các đặc điểm nhận biết các bên tham gia thị trường nói chung, có thể giao dịch trong cùng thị trường. (iv) Thị trường giao dịch: theo FASB và IASB, thị trường giao dịch trong định nghĩa GTHL là thị trường chính cho loại tài sản hay nợ phải trả cần định giá; 4 hoặc thị trường tối ưu nhất nếu không tồn tại thị trường chính. (v) Thời điểm đo lường: được xác định tại ngày đo lường giá trị (dựa trên giao dịch giả định cho dù trên thực tế không có giao dịch diễn ra tại thời điểm đó). GTHL không bao hàm ước tính về giá trị giao dịch sẽ xảy ra trong tương lai. (vi) Mức giá giao dịch: chi phí giao dịch không được tính đến trong mức giá giao dịch, mức giá giao dịch lại được điều chỉnh bởi chi phí vận chuyển (nếu có), bởi địa điểm có thể coi là đặc tính của tài sản (KPMG, 2013). 1.1.2.2 Các kỹ thuật định giá - Phương pháp giá thị trường: Phương pháp này được dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẽ không trả nhiều hơn chi phí để mua một tài sản tương tự. - Phương pháp thu nhập: Phương pháp này dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẵn sàng trả giá trị hiện tại của các lợi ích sẽ thu được của một giá trị lớn hơn trong tương lai. - Phương pháp giá phí: GTHL của một tài sản được xác định trên cơ sở xem xét các chi phí phải bỏ ra để có được một tài sản thay thế tương đương về năng lực sản xuất. 1.1.2.3 Các yếu tố đầu vào cho các kỹ thuật định giá +Yếu tố đầu vào cấp 1: là giá niêm yết (trước điều chỉnh) trên thị trường hoạt động đối với các tài sản và nợ phải trả cùng loại mà DN có thể tiếp cận tại ngày định giá. +Yếu tố đầu vào cấp 2: là các yếu tố đầu vào khác có thể quan sát được trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến tài sản hoặc nợ phải trả, ngoài giá niêm yết nêu tại yếu tố đầu vào cấp 1. +Yếu tố đầu vào cấp 3: là những yếu tố đầu vào không quan sát được liên quan đến tài sản/nợ phải trả. 1.2 Áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán 1.2.1 Sự cần thiết áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán - GTHL đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin để ra quyết định của các chủ thể có lợi ích liên quan - Sức ép phải hoà nhập với quốc tế về kế toán trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới - Lợi ích mang lại cho DN khi áp dụng GTHL 5 - Lợi ích mang lại đối với các nhà đầu tư, các quốc gia, các cơ quan quản lý. 1.2.2 Áp dụng GTHL trong các chuẩn mực kế toán quốc tế Nhóm 1: GTHL đề cập trong các CMKT quốc tế chủ yếu liên quan đến tài sản a) GTHL được sử dụng trong việc xác định giá trị tài sản để ghi nhận ban đầu b) GTHL được sử dụng trong việc xác định giá trị tài sản sau ghi nhận ban đầu (mô hình đánh giá lại) c) Các nội dung liên quan đến GTHL được yêu cầu trong thuyết minh báo cáo tài chính Nhóm 2: GTHL đề cập trong các CMKT quốc tế liên quan đến xác định và ghi nhận doanh thu Nhóm 3:GTHL đề cập trong các CMKT quốc tế liên quan đến công cụ tài chính 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán tại các doanh nghiệp 1.3.1 Sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán tại các doanh nghiệp Để đẩy mạnh việc áp dụng GTHL tại các DN, không thể thiếu được sự ủng hộ của các DN. Sự ủng hộ áp dụng GTHL của các DN được thể hiện hoặc là qua việc lựa chọn áp dụng GTHL (thể hiện thông qua các BCTC), hoặc là thể hiện trên quan điểm ủng hộ áp dụng (thông qua việc trả lời khảo sát của các nghiên cứu hay các hình thức khác). 1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý tại các doanh nghiệp Các nhân tố thuộc nhận thức của các DN bao gồm: (1) Nhân tố nhận thức lợi ích của việc áp dụng: Báo cáo tài chính thích hợp; Báo cáo tài chính minh bạch; Tăng cường sự tin cậy của nhà đầu tư; Báo cáo tài chính dễ so sánh; Giúp tăng cường mối quan hệ với bên cho vay; Giảm bất cân xứng thông tin; Cải thiện đo lường hiệu suất; Giảm chi phí vốn; Giúp báo cáo tài chính hữu ích hơn trong việc ra quyết định của DN; Giúp các cơ quan quản lý nắm được giá trị thực tế của DN, có thể kiểm soát được việc tăng vốn khống tại các DN; Góp phần thúc đẩy quá trình hội tụ quốc tế (2) Nhân tố nhận thức bất lợi của việc áp dụng: Tính tin cậy của GTHL khó xác định; Kéo theo hiệu ứng lan truyền gây ra khủng hoảng thị trường; Làm tăng nguy cơ gian lận của các DN; Cả giám đốc, nhà quản lý và kiểm toán viên phải đối mặt với rủi ro kiện tụng; Báo cáo tài chính bị biến động trong điều kiện bình 6 thường; Chủ quan,phức tạp, tốn thời gian, chi phí; Làm sai lệch thông tin trên báo cáo tài chính (3) Các nhân tố khác: - Nhận thức những thách thức khi áp dụng: Việc cập nhật hệ thống thông tin dữ liệu; Việc cập nhật qui trình kế toán; Việc cập nhật qui trình kiểm toán; Việc đào tạo nhân viên; Hướng dẫn không đủ về IAS/IFRS; Chương trình giảng dạy ngành kế toán tại các trường đại học rất ít đề cập đến IAS/IFRS - Nhận thức áp lực thể chế xã hội: (i) áp lực cưỡng chế: Ngân hàng thế giới (WB); Ngân hàng phát triển châu Á; Tổ chức tiền tệ quốc tế; Tổ chức thương mại thế giới; Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức từ Nhật bản (Japan ODA); Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức từ Hàn Quốc (Korea ODA); Cơ quan quản lý nhà nước (ii) áp lực tuân thủ qui phạm: bao gồm tuân thủ qui định, yêu cầu của các tổ chức IFAC, VAA, IASB, VACPA, ACCA, AFA, Giới học thuật nghiên cứu, CPA Úc, AOSSG, Các công ty kiểm toán (iii) cơ chế bắt chước: làm theo các quốc gia cho phép/yêu cầu áp dụng IFRS; các tập đoàn đa quốc gia; các DN hàng đầu; các công ty nước ngoài hàng đầu; các liên minh thương mại 1.4 Cơ sở lý thuyết của việc áp dụng giá trị hợp lý và mối quan hệ giữa nhận thức với sự ủng hộ áp dụng tại các doanh nghiệp 1.4.1 Cơ sở lý thuyết của việc áp dụng giá trị hợp lý Việc sử dụng GTHL ngày càng phổ biến xuất phát từ những cơ sở lý thuyết mà đã được các học giả nghiên cứu về GTHL tổng hợp như sau: - Tính hữu ích của thông tin tài chính đối với việc ra quyết định Theo lý thuyết này, hệ thống chuẩn mực kế toán tốt là phải cung cấp các thông tin tài chính hữu ích nhất cho người dùng trong quá trình ra quyết định của họ. - Lý thuyết nhà đầu tư: Lý thuyết này đưa ra quan điểm: các nhà đầu tư cần thông tin để dự đoán luồng tiền tương lai họ sẽ nhận được từ công ty mà họ đầu tư. Dựa vào BCTC, nhà đầu tư có thể dự đoán được luồng tiền này. Lý thuyết nhà đầu tư tập trung vào các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài đơn vị, đặc biệt là các cổ đông. Do vậy, lý thuyết nhà đầu tư rất coi trọng thông tin về luồng tiền. - Các lý thuyết tài chính: 7 Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient market hypothesis) là một học thuyết cho rằng thị trường tài chính là hiệu quả nên giá cả trên thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khoán) đã phản ánh đầy đủ các thông tin về tình hình tài chính của DN. 1.4.2 Cơ sở lý thuyết của mối quan hệ giữa nhận thức và sự ủng hộ áp dụng GTHL tại các doanh nghiệp 1.4.2.1 Nhận thức và nghiên cứu nhận thức Nhận thức là quá trình chủ quan được tạo bởi các kích thích giác quan được hiểu theo ý nghĩa kinh nghiệm (New World Encyclopedia, 2013). Trong khoa học nhận thức, nhận thức được xem như là quá trình tiếp nhận, giải thích, chọn lọc và tổ chức thông tin (Crosbie, 2014). Nghiên cứu nhận thức đã được sử dụng trong nhiều năm trong các tài liệu kế toán. 1.4.2.2 Lý thuyết hành vi có kế hoạch Lý thuyết hành vi có kế hoạch (được gọi tắt là TPB-Theory of Planned Behavior) cho rằng ý định thực hiện hành vi chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố: (1) thái độ đối với hành vi, (2) nhận thức về áp lực xã hội - hay được gọi bằng thuật ngữ chuẩn chủ quan, (3) nhận thức về kiểm soát hành vi 1.4.2.3 Lý thuyết thể chế mới Lý thuyết thể chế mới (được gọi tắt là NIA-New Institutionnal Accounting). Lý thuyết này đưa ra quan điểm về tính hợp pháp hay sự thích ứng của DN đối với áp lực cưỡng chế, áp lực tuân thủ qui phạm, cơ chế bắt chước. 8 CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1 Sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán tại các doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng 2.1.1 Sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý tại các doanh nghiệp Việc các DN đã ủng hộ và lựa chọn GTHL đã được nhiều học giả nghiên cứu về GTHL nhận định: ở những DN không được yêu cầu phải cam kết với GTHL nhưng đã thực hiện việc đánh giá lại, các DN “tự nguyện” áp dụng giá thị trường, tự nguyện lựa chọn GTHL. Việc lựa chọn này “dưới sự điều khiển của thị trường” chứ không phải chỉ là dưới sự cưỡng chế của các nhà hoạch định chính sách (Christensen và Nikolaev, 2013). 2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng giá trị hợp lý trong các DN (1) Nhân tố nhận thức lợi ích khi áp dụng GTHL Nhận thức về các lợi ích của việc áp dụng GTHL tại các DN được tìm thấy qua các nghiên cứu: Muller và cộng sự (2008) đã thực hiện nghiên cứu việc áp dụng GTHL tại các công ty đầu tư bất động sản thuộc liên minh châu Âu trên cơ sở khảo sát các BCTC của các DN niêm yết; Cairns và cộng sự (2008) với nghiên cứu việc áp dụng GTHL tại 228 công ty lớn niêm yết trên thị trường chứng khoán tại vương quốc Anh và Úc ; Christensen và Nikolaev (2009) đã thực hiện nghiên cứu tình hình áp dụng GTHL đối với các khoản mục liên quan đến tài sản phi tài chính dài hạn trên bảng cân đối kế toán của các DN thuộc 2 quốc gia Anh và Đức; Nghiên cứu của Jung và cộng sự (2013) khảo sát quan điểm của 209 giám đốc tài chính ở Mỹ; Jgeoma, N.B (2014) khảo sát quan điểm các giám đốc tài chính của các DN, Marco và Carlo (2016) khi nghiên cứu về những ảnh hưởng đến việc lựa chọn GTHL, đã tiến hành nghiên cứu BCTC của 427 công ty thuộc Anglo-Saxon và châu Âu lục địa. (2) Nhân tố nhận thức bất lợi khi áp dụng GTHL Nhận thức về các bất lợi của việc áp dụng GTHL được đề cập rõ qua các nghiên cứu như: - Tính tin cậy của GTHL khó xác định: nghiên cứu của Cairn và cộng sự (2008) - Kéo theo hiệu ứng lan truyền gây ra khủng hoảng tài chính: nghiên cứu của Allen và Carlleti (2008), Plantin và cộng sự (2008) - BCTC bị biến động trong điều kiện bình thường, làm biến động báo cáo thu 9 nhập: Cairn và cộng sự (2008), Laux và Leuz (2009) cũng như trong một số nghiên cứu của các học giả khác - Chi phí: Nghiên cứu của Muller và cộng sự (2008) - Cả giám đốc, nhà quản lý và kiểm toán viên phải đối mặt với rủi ro kiện tụng: Nghiên cứu của Christensen và Nikolaev (2009) - Làm tăng nguy cơ gian lận của các DN: Nghiên cứu của Christensen và Nikolaev (2009) Ngoài ra, các nghiên cứu của các học giả Việt Nam còn khá lo ngại khi áp dụng GTHL ở những bất lợi sau: - Chủ quan, phức tạp, tốn thời gian: Nguyễn Thế Lộc (2010), Mai Ngọc Anh (2011) - Làm sai lệch thông tin trên BCTC: Phạm Đức Hiếu (2010) (3) Nhân tố nhận thức thách áp dụng GTHL Qua các nghiên cứu cho thấy, thách thức của việc áp dụng GTHL tại các DN ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, môi trường văn hoá cũng như diều kiện của các DN cho việc áp dụng. Điển hình là các nghiên cứu: Laux và Leuz (2009; Cairn và cộng sự (2008); Christensen và Nikolaev (2012); Marco và Carlo (2016); Ball và cộng sự (2003); Leuz và cộng sự (2003); Bushman và Piotroski (2006); Ball (2006), Nobes (2006), Zeff (2007) Những nghiên cứu của Việt Nam: Trần Văn Tùng (2014); Hà Thị Ngọc Hà (2012); Lê Hoàng Phúc (2014). (4) Nhân tố áp lực thể chế xã hội Qua các nghiên cứu, nhân tố này được thể hiện trên cơ sở nhận thức về sự thích ứng của DN với áp lực thể chế xã hội. Trong nghiên cứu của Phan Thị Hồng Đức, sự nhận thức về tính thích ứng này được chia thành 3 loại : (i) nhận thức áp lực cưỡng chế, (ii) nhận thức áp lực qui phạm, (iii) nhận thức cơ chế bắt chước. 2.2 Tình hình áp dụng giá trị hợp lý trên thế giới và Việt Nam 2.2.1 Tình hình áp dụng giá trị hợp lý trên thế giới Việc sử dụng phương pháp GTHL được khẳng định là một xu thế tất yếu, giúp cung cấp các thông tin tài chính minh bạch và hữu ích, nhưng trước mắt cần áp dụng một mô hình hỗn hợp với nhiều quy tắc quy định: một số đối tượng được báo cáo ở GTHL và một số loại khác được báo cáo theo giá gốc. 2.2.2 Tình hình áp dụng giá trị hợp lý ở Việt Nam GTHL hầu như chỉ sử dụng cho ghi nhận ban đầu, chưa sử dụng để trình bày các khoản mục sau ghi nhận ban đầu, do đó chưa đạt được mục đích của GTHL là 10 trình bày các khoản mục theo những thay đổi của thị trường. GTHL được sử dụng như là giá gốc, dùng để thay thế giá gốc trong những trường hợp cần thiết. 2.3 Một số nhận xét về các nghiên cứu Bên cạnh các nghiên cứu mang tính lý luận, cũng có nhiều nghiên cứu đã khảo sát nhận thức của các DN về những lợi ích hay bất lợi, những thách thức khi áp dụng GTHL và tìm sự ảnh hưởng của các nhận thức này đến việc áp dụng GTHL tại các DN 2.4 Khoảng trống nghiên cứu Rất ít nghiên cứu cho các quốc gia chưa áp dụng IFRS theo hướng nghiên cứu nhận thức, cảm nhận của các DN về áp lực thể chế, lợi ích, bất lợi, thách thức áp dụng tại bối cảnh thể chế, môi trường kinh doanh của các quốc gia đang phát triển; cũng như ảnh hưởng của sự nhận thức, đánh giá này đến việc ủng hộ áp dụng GTHL tại các DN tại các quốc gia này. 11 CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Quy trình nghiên cứu Quy trình nghiên cứu tổng thể của Luận án được thực hiện qua bẩy bước như sau: (1) xác định vấn đề nghiên cứu; (2) xem xét các nghiên cứu tiên nghiệm; (3) xác định khoảng trống nghiên cứu; (4) thiết lập mô hình và giả thuyết nghiên cứu; (5) thu thập dữ liệu; (6) phân tích dữ liệu và (7) Viết báo cáo. 3.2 Mô hình và giả thuyết nghiên cứu 3.2.1 Mô hình nghiên cứu 3.2.1.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu cơ bản Mô hình nghiên cứu cơ bản của Luận án được thể hiện trong hình dưới đây: (Nguồn:Tác giả xây dựng từ tổng quan nghiên cứu) Đây là mô hình được xây dựng trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu và nghiên cứu định tính. Trong mô hình nghiên cứu cơ bản, “Sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam” bị ảnh hưởng bởi các nhân tố: (1) “Nhận thức lợi ích khi áp dụng GTHL”: đây là nhân tố phản ánh sự đánh giá của các DN về những lợi ích khi áp dụng GTHL; (2) “Nhận thức bất lợi khi áp dụng GTHL”: đây là nhân tố phản ánh sự đánh giá của các DN về những đặc tính không mong muốn của GTHL, những hậu quả không mong muốn của việc áp dụng GTHL; (3) “Nhận thức thách thức áp dụng GTHL”: đây là nhân tố phản ánh sự đánh giá của các DN về những khó khăn, thách thức đối với DN khi áp dụng GTHL; (4) “Nhận thức áp lực thể chế cưỡng chế”: đây là nhân tố phản ánh sự đánh Nhận thức áp lực th
Luận văn liên quan