Tóm tắt luận án Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam

Cụm từ Merge and Acquisition (viết tắt là M&A) có nghĩa là sáp nhập và mua lại (hoặc mua bán) doanh nghiệp, đó là hoạt động giành quyền kiểm soát, chi phối một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. M&A đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, các nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế và pháp lý bởi tính phổ biến và các tác động khác nhau tới toàn cảnh nền kinh tế thế giới. M&A được xem xét dưới hai góc độ chủ yếu là góc độ kinh tế như một vấn đề của quản trị chiến lược công ty, tài chính doanh nghiệp và góc độ pháp lý như đối tượng của khung khổ pháp lý để thực hiện giao dịch M&A. Tác giả luận án lựa chọn một trong hai hoạt động của M&A là hoạt động mua lại hoặc mua bán doanh nghiệp làm đề tài nghiên cứu luận án Luật học xuất phát từ những lý do cơ bản sau: Một là, các nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu M&A dưới góc độ kinh tế, rất ít có các công trình khoa học pháp lý về M&A nói chung và mua bán doanh nghiệp nói riêng. Ở Việt Nam, các quy định pháp lý về sáp nhập doanh nghiệp tương đối rõ ràng, trong khi đó các quy định pháp luật về mua bán doanh nghiệp chưa thống nhất, thiếu tính toàn diện. Hầu hết các công trình nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp dưới góc độ hẹp như mua bán công ty (không nghiên cứu mua bán doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) hoặc nghiên cứu về hợp đồng mua bán doanh nghiệp trong các bài viết hội thảo chưa đánh giá được tổng thể pháp luật về mua bán doanh nghiệp. Từ đó đặt ra yêu cầu cần phải có các công trình khoa học pháp lý chuyên sâu hơn nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu pháp luật về mua bán doanh nghiệp là một đề tài gợi mở ý tưởng cho nghiên cứu sinh lựa chọn để triển khai thành công trình luận án tiến s ĩ luật học. Hai là, ở góc độ cạnh tranh, mua bán doanh nghiệp được hiểu là hành vi tập trung kinh tế gắn với quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp, liên doanh và các hành vi tập trung kinh tế khác. Các Mác đã phát hiện ra quy luật đầy tính nghịch lý: Cạnh tranh làm phát sinh tập trung kinh tế nhưng tập trung kinh tế đến một mức độ nhất định lại tiêu diệt cạnh tranh và bắt buộc Nhà nước phải điều chỉnh 4 pháp luật đối với tập trung kinh tế. Đó cũng là một lý do cần phải có công trình nghiên cứu luật học đánh giá pháp luật và tình hình thực thi pháp luật cạnh tranh để kiểm soát các thương vụ mua bán doanh nghiệp nhằm bảo vệ cạnh tranh trên thị trường và phúc lợi chung của xã hội. Với những lý do đó tôi lựa chọn "Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ.

pdf29 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2150 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TRẦN THỊ BẢO ÁNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 62 38 01 07 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 2 Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Viết Tý 2. TS Phan Chí Hiếu Phản biện 1: GS.TS Lê Hồng Hạnh Phản biện 2: PGS. TS Dương Đăng Huệ Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Minh Mẫn Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường, họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội, vào hồi ngày tháng năm 2014. Có thể tìm hiểu luận án tại: 1) Thư viện Quốc gia; 2) Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội. 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cụm từ Merge and Acquisition (viết tắt là M&A) có nghĩa là sáp nhập và mua lại (hoặc mua bán) doanh nghiệp, đó là hoạt động giành quyền kiểm soát, chi phối một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. M&A đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, các nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế và pháp lý bởi tính phổ biến và các tác động khác nhau tới toàn cảnh nền kinh tế thế giới. M&A được xem xét dưới hai góc độ chủ yếu là góc độ kinh tế như một vấn đề của quản trị chiến lược công ty, tài chính doanh nghiệp và góc độ pháp lý như đối tượng của khung khổ pháp lý để thực hiện giao dịch M&A. Tác giả luận án lựa chọn một trong hai hoạt động của M&A là hoạt động mua lại hoặc mua bán doanh nghiệp làm đề tài nghiên cứu luận án Luật học xuất phát từ những lý do cơ bản sau: Một là, các nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu M&A dưới góc độ kinh tế, rất ít có các công trình khoa học pháp lý về M&A nói chung và mua bán doanh nghiệp nói riêng. Ở Việt Nam, các quy định pháp lý về sáp nhập doanh nghiệp tương đối rõ ràng, trong khi đó các quy định pháp luật về mua bán doanh nghiệp chưa thống nhất, thiếu tính toàn diện. Hầu hết các công trình nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp dưới góc độ hẹp như mua bán công ty (không nghiên cứu mua bán doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) hoặc nghiên cứu về hợp đồng mua bán doanh nghiệp trong các bài viết hội thảo chưa đánh giá được tổng thể pháp luật về mua bán doanh nghiệp. Từ đó đặt ra yêu cầu cần phải có các công trình khoa học pháp lý chuyên sâu hơn nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu pháp luật về mua bán doanh nghiệp là một đề tài gợi mở ý tưởng cho nghiên cứu sinh lựa chọn để triển khai thành công trình luận án tiến sĩ luật học. Hai là, ở góc độ cạnh tranh, mua bán doanh nghiệp được hiểu là hành vi tập trung kinh tế gắn với quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp, liên doanh và các hành vi tập trung kinh tế khác. Các Mác đã phát hiện ra quy luật đầy tính nghịch lý: Cạnh tranh làm phát sinh tập trung kinh tế nhưng tập trung kinh tế đến một mức độ nhất định lại tiêu diệt cạnh tranh và bắt buộc Nhà nước phải điều chỉnh 4 pháp luật đối với tập trung kinh tế. Đó cũng là một lý do cần phải có công trình nghiên cứu luật học đánh giá pháp luật và tình hình thực thi pháp luật cạnh tranh để kiểm soát các thương vụ mua bán doanh nghiệp nhằm bảo vệ cạnh tranh trên thị trường và phúc lợi chung của xã hội. Với những lý do đó tôi lựa chọn "Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Với tính chất là luận án tiến sĩ Luật học, luận án đặt trọng tâm nghiên cứu mua bán doanh nghiệp dưới góc độ khoa học pháp lý. Luận án tập trung phân tích nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp mà không nghiên cứu các hoạt động sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Dưới góc độ pháp lý, mua bán doanh nghiệp là một hoạt động đầu tư phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như pháp luật về hợp đồng, pháp luật về chứng khoán, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật cạnh tranh, pháp luật lao động, pháp luật đất đai, pháp luật về môi trường, pháp luật về tài chính, pháp luật về sở hữu trí tuệ… Luận án không phân tích tất cả các nội dung pháp luật liên quan đến mua bán doanh nghiệp; không nghiên cứu chuyên sâu về các thủ tục sau thương vụ mua bán doanh nghiệp như: thủ tục về thuế, thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp; không phân tích quản lý nhà nước đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp (dưới khía cạnh của pháp luật cạnh tranh, pháp luật chứng khoán) và các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán doanh nghiệp. Mua bán doanh nghiệp là đề tài nghiên cứu có nội dung rất rộng, khá phức tạp nhưng trong giới hạn của luận án tiến sĩ, đề tài tập trung nghiên cứu với phạm vi sau đây: Luận án tập trung nghiên cứu mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam với tính chất là những hoạt động đầu tư nhằm giành quyền sở hữu và quyền kiểm soát doanh nghiệp với các nội dung cụ thể, gồm: chủ thể thực hiện mua bán doanh nghiệp, đối tượng mua bán là một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp, các hình thức mua bán doanh nghiệp; thủ tục mua bán 5 doanh nghiệp; kiểm soát mua bán doanh nghiệp dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh. Trong thực tiễn, mua bán doanh nghiệp được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng khác nhau, trong giới hạn luận án tiến sĩ luật học, mua bán doanh nghiệp được nghiên cứu dưới hình thức chủ sở hữu doanh nghiệp chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp chi phối cho bên mua. Vì vậy, các hình thức doanh nghiệp tăng vốn điều lệ và bên góp vốn vào vốn điều lệ nhằm mục đích chi phối, kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án: Mục đích của luận án là nghiên cứu hoạt động mua bán doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý và xây dựng một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam. Để đạt được mục đích trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận của hoạt động mua bán doanh nghiệp bằng việc làm rõ quan niệm về mua bán doanh nghiệp ở một số quốc gia và quan niệm mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam; làm rõ đặc điểm mua bán doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với một số quan hệ pháp luật khác; phân tích các nội dung cơ bàn của pháp luật về mua bán doanh nghiệp. Trong quá trình phân tích, hoạt động mua bán doanh nghiệp được xem xét dưới góc độ so sánh với quy định của một số nước trên thế giới làm phong phú hơn cũng như toàn diện và hệ thống hơn về hoạt động này. Thứ hai, nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động mua bán doanh nghiệp, chỉ ra những tồn tại bất cập của hệ thống pháp luật về mua bán doanh nghiệp và phân tích, bình luận những kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở một số quốc gia; Phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động mua bán doanh nghiệp làm nền tảng để đề ra giải pháp phù hợp. Thứ ba, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được hình thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. 6 Cơ sở phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Để giải quyết những vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra, luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh luật học. 5. Điểm mới và ý nghĩa của luận án Luận án đạt được những kết quả nghiên cứu mới sau: - Luận án đã phân tích quan niệm về mua bán doanh nghiệp ở trên thế giới, từ đó xây dựng một quan niệm về mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam; chỉ ra những đặc trưng pháp lý cơ bản của mua bán doanh nghiệp so với mua bán tài sản, cho thuê doanh nghiệp, tặng cho doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp, chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp. - Luận án đã xây dựng hệ thống lý luận khoa học pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam, thể hiện qua việc xác định rõ nội dung của pháp luật về mua bán doanh nghiệp bao gồm các quy phạm về hình thức mua bán doanh nghiệp, chủ thể mua bán doanh nghiệp, hợp đồng mua bán doanh nghiệp, thủ tục mua bán doanh nghiệp và kiểm soát mua bán doanh nghiệp dưới góc độ điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh. - Luận án là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên đánh giá một cách tương đối toàn diện và có hệ thống thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành về mua bán doanh nghiệp. Đồng thời, luận án đã phân tích, đánh giá những kinh nghiệm quốc tế trong việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp. - Luận án đã đề ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển các hoạt động mua bán doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Kết cấu của luận án Ngoài Lời nói đầu, Phần tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 3 chương, cụ thể như sau: 7 Chương 1: Những vấn đề lý luận về mua bán doanh nghiệp và pháp luật về mua bán doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam. PHẦN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Có khá nhiều công trình khoa học từ giáo trình luật học, sách tham khảo, luận án, luận văn, các bài báo đến bài tham luận tại các hội thảo đã nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp. Có thể kể điển hình như: M&A- Mua lại và sáp nhập căn bản, các bước quan trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư của tác giả Michael E.S. Frankel, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009) và Mua lại và sáp nhập từ A đến Z của Andrew J.Sherman, Milledge A. Hart, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009); Cuốn sách M&A- Mua lại và sáp nhập thông minh, kim chỉ nam trên trận đồ sáp nhập và mua lại của tác giả Scott Moeller & Chris Brady, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009); Bài viết: Các vấn đề cần lưu ý khi tham gia giao dịch M&A tại Việt Nam của Luật sư nước ngoài Gregoty Crovo (Công ty Kelvin ChiaPartnership); Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam- Hiện trạng và dự báo (2012), Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương, Hà Nội; Nghiên cứu khoa học: Cẩm nang Mua bán và sáp nhập tại Việt Nam của Mạng Mua bán và sáp nhập Việt Nam, (2009); Đề tài khoa học cấp Bộ: Hoạt động sáp nhập và mua lại- Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam (2009) của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Pháp luật điều chỉnh sáp nhập, mua lại ở Việt Nam- kỷ yếu hội thảo khoa học Pháp luật về sáp nhập, mua lại: Những vấn đề lý luận và thực tiễn do Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2010) tổ chức và chủ trì; Sách chuyên khảo: Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư- Những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội do TS Nguyễn Thị Dung chủ biên năm 2009… 8 Ở những khía cạnh khác nhau, việc nghiên cứu về hoạt động mua bán doanh nghiệp đã được các tác giả trên đây đề cập đến nhưng mới chỉ dừng lại ở từng nội dung cụ thể mà không có điều kiện để giải quyết toàn diện và sâu sắc về mọi khía cạnh của hoạt động mua bán doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu một cách chuyên sâu hơn, đầy đủ, toàn diện và có hệ thống hơn về hoạt động mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là thực sự cần thiết. Tác giả luận án sẽ đánh giá pháp luật về mua bán doanh nghiệp theo hai góc nhìn: (i) mua bán doanh nghiệp là quyền tự do kinh doanh, theo đó luận án chỉ rõ khung khổ pháp lý để thực hiện thủ tục mua bán doanh nghiệp; (ii) mua bán doanh nghiệp dưới góc độ điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh, những nội dung của Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2012 sẽ được tác giả tham khảo để đưa ra những nhận định riêng của cá nhân nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam. Luận án sẽ phân tích để nhận diện quan hệ mua bán doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá các nội dung nghiên cứu về M&A kết hợp với việc phân tích quy định pháp luật về mua bán doanh nghiệp, quy định về M&A của một số nước. Đây là nội dung tiếp cận mua bán doanh nghiệp của luận án khác với nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp của các công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP 1.1. Khái quát về mua bán doanh nghiệp 1.1.1. Quan niệm về mua bán doanh nghiệp Trên cơ sở phân tích cách hiểu và về mua bán doanh nghiệp ở một số quốc gia, quy định của Luật Cạnh tranh (2004), Luật Doanh nghiệp (2005), luận án đã đưa ra quan niệm về mua bán doanh nghiệp như sau: Mua bán doanh nghiệp là việc chủ sở hữu doanh nghiệp chuyển nhượng toàn bộ vốn hoặc chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần chi phối cho bên nhận chuyển nhượng. Bên nhận chuyển nhượng có quyền sở hữu 9 toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp và kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được mua lại. 1.1.2. Đặc điểm của mua bán doanh nghiệp Một là, đối tượng của quan hệ mua bán là doanh nghiệp với tính chất là “hàng hóa” đặc biệt trong quan hệ mua bán doanh nghiệp. Hai là, hệ quả của mua bán doanh nghiệp là bên mua phải kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mục tiêu. Ba là, chủ thể có quyền bán doanh nghiệp phải là chủ sở hữu doanh nghiệp, chủ thể mua doanh nghiệp là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua doanh nghiệp và có quyền mua doanh nghiệp. Bốn là, hình thức pháp lý ghi nhận các quan hệ mua bán doanh nghiệp là hợp đồng, có thể là hợp đồng mua bán doanh nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp chi phối (gọi chung là hợp đồng mua bán doanh nghiệp). Bốn là, mua bán doanh nghiệp phải được sự cho phép hoặc thừa nhận, kiểm soát của các cơ quan nhà nước theo những thủ tục pháp lý nhất định. Phân biệt mua bán doanh nghiệp với một số quan hệ pháp luật Phân biệt mua bán doanh nghiệp và cho thuê, tặng cho doanh nghiệp, quan hệ mua nợ của doanh nghiệp Mua bán doanh nghiệp khác với cho thuê doanh nghiệp. Trong quan hệ cho thuê doanh nghiệp, bên cho thuê doanh nghiệp không chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên thuê. Bên thuê doanh nghiệp chỉ có quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê doanh nghiệp và các quy định của pháp luật có liên quan. Mua bán doanh nghiệp khác với tặng cho doanh nghiệp. Quan hệ mua bán doanh nghiệp là việc bên bán chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên mua, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán (có đền bù). Đối với quan hệ tặng cho doanh nghiệp, bên tặng cho doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù; bên được tặng cho đồng ý nhận doanh nghiệp mà không phải thanh toán. Mua bán doanh nghiệp khác với mua nợ của doanh nghiệp vì mua bán doanh nghiệp là việc chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên mua nhưng quan hệ mua nợ chỉ làm thay đổi chủ nợ mà không làm thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp. Ngoại lệ từ mua nợ trở thành mua doanh nghiệp là trường 10 hợp chủ nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện việc chuyển khoản nợ thành vốn chủ sở hữu. Phân biệt mua bán doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp Một là: Đối tượng của quan hệ mua bán doanh nghiệp và đối tượng của quan hệ mua bán tài sản khác nhau. Đối tượng của quan hệ mua bán tài sản là tài sản của doanh nghiệp mục tiêu. Mua bán tài sản của doanh nghiệp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu phần tài sản nào đó của từ bên bán sang bên mua tài sản. Đối tượng của quan hệ mua bán doanh nghiệp là doanh nghiệp. Hai là: Chủ thể bán tài sản và chủ thể có quyền bán doanh nghiệp khác nhau Doanh nghiệp chỉ là đối tượng của quan hệ mua bán doanh nghiệp, doanh nghiệp không thể tự bán mình được. Vì vậy, chủ thể có quyền bán doanh nghiệp là chủ sở hữu doanh nghiệp đó. Khác với mua bán doanh nghiệp, theo lý thuyết chung về quyền của chủ sở hữu tài sản đối với tài sản thì chủ thể có quyền bán tài sản của doanh nghiệp chính là doanh nghiệp. Phân biệt mua bán doanh nghiệp và sáp nhập doanh nghiệp Đối tượng của mua bán và sáp nhập doanh nghiệp khác nhau: Mua bán doanh nghiệp là việc chuyển quyền sở hữu toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp mục tiêu cho bên mua. Sáp nhập doanh nghiệp là việc chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập sang doanh nghiệp nhận sáp nhập. Hệ quả pháp lý sau khi sáp nhập và mua bán doanh nghiệp khác nhau: Doanh nghiệp bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại sau khi thực hiện sáp nhập. Khác với sáp nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp là đối tượng trong thương vụ mua bán vẫn tồn tại trước và trong và sau quá trình mua bán. Phân biệt mua bán doanh nghiệp và các hình thức đầu tư tài chính thông qua chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của thành viên, cổ đông của công ty. Chỉ được coi là mua bán doanh nghiệp khi việc chuyển nhượng phần vốn góp dẫn đến hệ quả bên nhận chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp kiểm soát, chi phối được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mục tiêu. 11 1.1.3. Tác động của mua bán doanh nghiệp đối với bên bán, bên mua doanh nghiệp và nền kinh tế- xã hội Luận án đã đánh giá các tác động khác nhau của mua bán doanh nghiệp đến nền kinh tế- xã hội, gồm những tác động tích cực đến việc gia tăng lợi ích kinh tế thu được từ việc thực hiện các thương vụ mua bán doanh nghiệp. Đồng thời, luận án cũng xem xét ở khía cạnh cạnh tranh thì mua bán doanh nghiệp là một hành vi tập trung kinh tế, là “cửa ngõ” dẫn đến việc hình thành các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường. 1.2. Pháp luật về mua bán doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm pháp luật về mua bán doanh nghiệp Mua bán doanh nghiệp có tính phức tạp, bao trùm tất cả những vấn đề về tài sản, nguồn vốn, thị trường, thương hiệu, cấu trúc quản lý, nhân sự, văn hóa… Mua bán doanh nghiệp được nghiên cứu ở góc độ kinh tế, tài chính, pháp lý và nội dung nghiên cứu về mua bán doanh nghiệp khác nhau do tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Pháp luật mua bán doanh nghiệp có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. * Theo nghĩa rộng: Pháp luật mua bán doanh nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các bên tiến hành hoạt động mua bán doanh nghiệp. * Theo nghĩa hẹp: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ xã hội phát sinh giữa bên mua, bên bán doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp và quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với doanh nghiêp trong việc đăng ký thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc thực hiện kiểm soát Nhà nước về tập trung kinh tế. Pháp luật về mua bán doanh nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm các quy định cụ thể điều chỉnh trực tiếp mối quan hệ giữa các bên tham gia thương vụ mua bán doanh nghiệp. Cụ thể, pháp luật về mua bán doanh nghiệp theo nghĩa hẹp với nội hàm: quy định về các hình thức mua bán doanh nghiệp; quy định về chủ thể với vai trò là bên bán, bên mua doanh nghiệp; quy định về hợp đồng mua bán doanh nghiệp; quy định về thủ tục mua bán 12 doanh nghiệp; quy định về kiểm soát doanh nghiệp dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh 1.2.2.
Luận văn liên quan