Tóm tắt Luận án Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi tại 3 tỉnh Hà nam, Quảng bình, Lào cai

Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất bảo đảm cho sự sống còn và phát triển tối ưu cho trẻ em mà không có một loại thức ăn nào có thể thay thế được. Sữa mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và dễ cho trẻ tiêu hoá, hấp thu. Cùng với sự lớn lên của trẻ, sữa mẹ thay đổi số lượng để đáp ứng nhu cầu thay đổi đó kể cả số lượng sản xuất trong ngày và cho từng bữa bú. Một số thành phần trong sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứng phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ. Các phân tích về thành phần và số lượng sữa, các nhà khoa học đã khẳng định là nếu bà mẹ khỏe mạnh, dinh dưỡng, nghỉ ngơi đầy đủ sẽ cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng mà không cần bất cứ thức ăn, nước uống nào khác [176], [171]. Chính vì thế, WHO khuyến khích các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai [170]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi năm [172]. Vì vậy, WHO khuyến cáo cho tất cả các bà mẹ cần cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho ăn bổ sung hợp lý khi trẻ được tròn 6 tháng và tiếp tục bú mẹ cho đến 24 tháng hoặc lâu hơn [171], [59].

pdf28 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi tại 3 tỉnh Hà nam, Quảng bình, Lào cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ------------------*----------------- ĐẶNG CẨM TÚ THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0 - 25 THÁNG TUỔI TẠI 3 TỈNH HÀ NAM, QUẢNG BÌNH, LÀO CAI VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP, 2013-2015 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG HÀ NỘI - 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ------------------*----------------- ĐẶNG CẨM TÚ THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0 - 25 THÁNG TUỔI TẠI 3 TỈNH HÀ NAM, QUẢNG BÌNH, LÀO CAI VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP, 2013-2015 Chuyên ngành: Y tế công cộng Mã số: 62 72 03 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hoàng Văn Tân 2. PGS.TS. Khương Văn Duy HÀ NỘI - 2018 Công trình được hoàn thành tại: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hoàng Văn Tân 2. PGS.TS. Khương Văn Duy Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án đước bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Viện họp tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, vòa hồi giờ , ngày tháng năm 2018 Có thể tìm luận án tại: 1. Thư viện Quốc gia 2. Thư viện Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng trẻ tự nhiên mang lại lợi ích tối ưu nhất cho sự sống còn, lớn lên và phát triển của trẻ. Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, tiếp tục cho ăn bổ sung hợp lý và duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ [1]. Nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp can thiệp có hiệu quả nhất trong giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn góp phần quan trọng giảm tỷ lệ mắc viêm phổi và tiêu chảy là 2 nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) chỉ riêng với can thiệp cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn (BMHT) trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giới [1]. Nuôi con bằng sữa mẹ còn có tác động tích cực đến sức khỏe bà mẹ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các bà mẹ cho con bú giảm nguy cơ mắc ung thư vú và buồng trứng là 2 nguy cơ hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ. Tình trạng NCBSM ở Việt Nam cũng tương tự như các nước đang phát triển khác. Theo số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy chỉ có chỉ có 26,5% số bà mẹ cho con bú sớm và 24,3% số bà mẹ cho con BMHT trong 6 tháng đầu. Để góp phần cải thiện thực hành cho trẻ bú sớm và BMHT, đồng thời chuyển tải các chính sách, hướng dẫn vào thực tế chúng tôi thực hiện đề tài “Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và hiệu quả can thiệp truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà mẹ có con 0-25 tháng tuổi tại 3 tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình, năm 2012- 2015” với các mục tiêu sau: 1. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của phụ nữ có con từ 0 - 25 tháng tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình năm 2012. 2. Đánh giá hiệu quả của biện pháp can thiệp truyền thông giáo dục sức khoẻ đối với kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ của các phụ nữ có con dưới 2 tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình từ năm 2013 đến 2015. 2 Những đóng góp mới của luận án Kết quả của luận án sẽ là cơ sở khoa học cho các giải pháp can thiệp truyền thông nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ, một trong những ưu tiên trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Điểm mới của luận án là đúc kết ra mô hình sinh hoạt câu lạc bộ, truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức và tiến tới thay đổi hành vi của cộng đồng trong việc khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ. Luận án gồm 178 trang, 34 bảng, 9 biểu đồ và 181 tài liệu tham khảo, trong đó có 112 tài liệu nước ngoài. Về bố cục, phần đặt vấn đề 3 trang, tổng quan tài liệu 30 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 21 trang, kết quả nghiên cứu 47 trang, bàn luận 26 trang, kết luận 2 trang, khuyến nghị 2 trang. 3 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Kinh nghiệm thực tế và kết qủa của nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định các lợi ích của NCBSM đối với sự lớn lên và phát triển toàn diện của trẻ; giảm nguy cơ bệnh tật cho mẹ và lợi ích kinh tế cho cộng đồng. 1.1.1. Lợi ích đối với trẻ Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất bảo đảm cho sự sống còn và phát triển tối ưu cho trẻ em mà không có một loại thức ăn nào có thể thay thế được. Sữa mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và dễ cho trẻ tiêu hoá, hấp thu. Cùng với sự lớn lên của trẻ, sữa mẹ thay đổi số lượng để đáp ứng nhu cầu thay đổi đó kể cả số lượng sản xuất trong ngày và cho từng bữa bú. Một số thành phần trong sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứng phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ. Các phân tích về thành phần và số lượng sữa, các nhà khoa học đã khẳng định là nếu bà mẹ khỏe mạnh, dinh dưỡng, nghỉ ngơi đầy đủ sẽ cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng mà không cần bất cứ thức ăn, nước uống nào khác [176], [171]. Chính vì thế, WHO khuyến khích các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai [170]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi năm [172]. Vì vậy, WHO khuyến cáo cho tất cả các bà mẹ cần cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho ăn bổ sung hợp lý khi trẻ được tròn 6 tháng và tiếp tục bú mẹ cho đến 24 tháng hoặc lâu hơn [171], [59]. 1.1.2. Lợi ích đối với bà mẹ Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin, vì thế cho con bú sớm ngay sau khi đẻ sẽ giúp tử cung co hồi tốt, giảm nguy cơ chảy máu sau đẻ [171]. Các bà mẹ cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thời ít nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng trứng, loãng xương. Hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể giảm căng thẳng và chứng trầm cảm ở bà mẹ sau khi sinh [138], [109]. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu làm ức chế hoạt động của buồng trứng, sẽ làm bà mẹ chậm có kinh trở lại, vì vậy nuôi con bằng sữa mẹ có tác dụng như một biện pháp tránh thai tự nhiên [138]. Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy rằng nếu bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu và không có dấu hiệu có kinh nguyệt trở lại thì khả năng mang thai là dưới 2% [128]. 1.2. Thực trạng kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ 1.2.1. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới Lợi ích của sữa mẹ đã được khẳng định trong trong rất nhiều nghiên cứu và đã được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Phần lớn các bà mẹ ở các nước trên thế giới hiểu biết và ủng hộ NCBSM, tuy nhiên kiến thức và thực hành về cho trẻ bú sớm và BMHT còn hạn chế. Nhìn chung, thực hành NCBSM ở các ở các nước thu nhập thấp và trung bình tốt hơn ở các nước thu nhập cao với hầu hết các bà mẹ đều cho con bú và có đến hơn 60% kéo dài đến 20- 23 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm không đạt được như mong muốn và cũng chỉ có 37% số trẻ được BMHT trong 6 tháng [167]. 4 Lý do số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu thấp nhìn chung là giống nhau ở hầu hết các nghiên cứu trên thế giới. Mẹ không đủ sữa, phải đi làm sớm, mẹ hoặc con bị bệnh là những lý do chính bà mẹ không cho con bú hoàn toàn và cai sữa sớm [118], [133], [178]. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy có khoảng 8% số bà mẹ không cho con bú vì không thích làm công việc này [156]. 1.2.2. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam Kiến thức, niềm tin là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc cho con BMHT trong 6 tháng đầu. Một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiều bà mẹ không tin sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng tuổi, ví dụ trong một khảo sát thực hiện online với 509 bà mẹ tham gia, có 30,3% bà mẹ cho rằng sữa mẹ không đủ chất và lượng để cung cấp cho bé đến 6 tháng tuổi [54]. Trong khi các quảng cáo của nhiều hãng sữa công thức ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý và thực hành của bà mẹ về cho trẻ BMHT [16]. Tác động của các thành viên trong gia đình, về các thực hành truyền thống cũng ảnh hưởng nhiều đến việc cho bú sớm và BMHT. Các cặp vợ chồng ở cùng bố mẹ thường phải theo hướng dẫn theo kinh nghiệm của mẹ chồng hoặc mẹ đẻ cho trẻ ăn sam sớm với nhận thức là để trẻ cứng cáp hơn. Mặt khác, sự thiếu sự quan tâm từ phía gia đình như trong giai đoạn cho con bú, hay các quan niệm cho rằng sữa mẹ không cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong 6 tháng đầu, sữa mẹ không tốt cũng là các rào cản đối với BMHT. 1.3. Tác động của truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng truyền thông đóng vai trò quan trọng đối với NCBSM cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Những thông tin đúng sẽ cung cấp thêm kiến thức, thay đổi thái độ và cải thiện thực hành theo hướng tích cực, ngược lại các quảng cáo hay những gói dịch vụ khuyến mại của các hãng sữa thường làm giảm niềm tin vào sữa mẹ và ảnh hưởng nhiều đến các thực hành NCBSM. Tại Việt Nam, từ những năm đầu của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu đã khẳng định về ảnh hưởng lớn đến thực hành NCBSM. Kết quả nghiên cứu của Dương Văn Đạt và cộng sự cho thấy có tới 98% bà mẹ tiếp cận với các hãng sữa trong thời kỳ mang thai và sau sinh, trong đó có tới 53% bà mẹ quyết định mua sữa công thức sau khi nhận được những nội dung quảng cáo này [96], [97], [95]. 1.4. Một số chương trình can thiệp cải thiện kiến thức, thái độ, thực hành NCBSM 1.4.1. Một số mô hình trên thế giới Có khá nhiều chương trình can thiệp thúc đẩy kiến thức và thực hành NCBSM ở nhiều nước trên thế giới. Tìm hiểu các số liệu thứ cấp trên thư viện Pubmed, Medline, Cochrane Library, EMBASE và của WHO từ tháng 5/2012 đến 27/11/2012 cho kết quả có 372 chương trình can thiệp được thực hiện, trong đó có 111 nghiên cứu sử dụng can thiệp truyền thông dựa và cộng đồng, 21 can thiệp tại cộng đồng và 43 nghiên cứu kết hợp can thiệp ở cộng đồng và ở các dịch vụ y tế. Trong số 111 nghiên cứu can thiệp truyền thông dựa vào cộng động có 27 nghiên cứu ở các nước đang phát triển. Các can thiệp ở những nghiên cứu này cũng chủ yếu tiến hành các truyền thông cá nhân, truyền thông nhóm, thăm hộ gia đình và có thêm hình thức gọi điện thoại hỏi thăm, tư vấn, khuyến khích các bà mẹ. Từ các nghiên cứu đã thực hiện ở các nước trên thế giới, có thể thấy rằng, hiệu quả các can thiệp truyền thông dựa vào cộng đồng có ý nghĩa nâng cao nhận thức, kiến thức cho các bà 5 mẹ và những người thân để tạo lập một môi trường hỗ trợ cho các bà mẹ thực hành những hành vi đúng. 1.4.2. Một số mô hình tại Việt Nam Mô hình tư vấn dinh dưỡng “Mặt trời bé thơ” được thành lập dựa trên hệ thống y tế công lập, thiết kế các hoạt động cộng đồng, truyền thông và hỗ trợ tiếp cận đến các phòng tư vấn dinh dưỡng. Mô hình được triển khai tại 15 tỉnh, thành trên cả nước gồm: Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắc Lắc, Đắc Nông, Khánh Hòa, Vĩnh Long, Tiền Giang và Cà Mau; nhiều địa phương đã ghi nhận những cải thiện đáng kể trong cách thức nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ nhỏ. Sau 5 năm triển khai, Dự án đã hỗ trợ thành lập gần 800 phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” tại các cơ sở y tế của 15 tỉnh trên cả nước (và mở rộng thêm 250 phòng vào cuối kỳ dự án năm 2014). Riêng tại Hà Nội, đã có 121 phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” được thành lập trên 12 huyện, từ năm 2009 đến nay số lượng phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” đã tăng gấp 7 lần số lượng phòng tư vấn ban đầu, với số lượt tư vấn trung bình tại mỗi phòng là trên dưới 100 lượt/tháng. Mô hình “Tham gia của người cha về NCBSM ở Hải Dương”. Đây là một can thiệp sử dụng thiết kế phỏng thực nghiệm có đối chứng và so sánh trước sau, được triển khai trong giai đoạn từ tháng 5/2010 đến đến tháng 9/2011. Địa bàn can thiệp là CHILILAB, là thực địa của Trường Đại học Y tế công cộng, thị xã Hải Dương. Nguyên tắc của triển khai can thiệp là lồng ghép với các hoạt động chăm sóc sức khỏe thường quy của địa phương. Địa bàn can thiệp là 3 phường và 4 xã của thị xã Chí Linh - Hải Dương. Địa bàn đối chứng được chọn là 7 xã/thị trấn của huyện Thanh Hà, nơi không được tiếp cận với các biện pháp can thiệp đặc thù của nghiên cứu, có đặc điểm kinh tế văn hóa xã hội và các chương trình, hoạt động chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng khá tương đồng nhưng không giáp với Chí Linh (CHILILAB). 6 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thoả mãn 1 trong các điều kiện sau: - Những phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi - Những phụ nữ đã xây dựng gia đình đang mang thai 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.2.1. Địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được triển khai tại ba tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình. Là những tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, đặc trưng cả khu vực thành thị, nông thôn, có mức sống và điều kiện kinh tế, xã hội tương đương nhau, có dân tộc thiểu số sinh sống là một đối tượng đặc thù để khai thác khi tiến hành nghiên cứu. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh sử dụng kết quả của chương trình “Nuôi con bằng sữa mẹ” do Hội LHPN Việt Nam thực hiện tại các tỉnh này, do đó đây cũng là cách chọn tỉnh thuận tiện, thuận lợi cho nghiên cứu sinh thực hiện đề tài và kiểm tra giám sát tại các địa bàn này. 2.2.2. Thời gian nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2012 đến tháng 12/2015. Chi tiết thời gian thực hiện như sau: 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Giai đoạn 1: điều tra cắt ngang kết hợp với nghiên cứu định tính a) Điều tra cắt ngang Cỡ mẫu nghiên cứu cho 03 tỉnh trong nghiên cứu này dựa vào công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ trong quần thể với độ chính xác tương đối: n =   p p Z   2 2 2/1 1  Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế), tỷ lệ bà mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu là 10% (p = 0,10) với mức ý nghĩa 5% và với độ chính xác tương đối của ε là 0,265. Cỡ mẫu tính được là 492 trường hợp đối tượng phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi, phụ nữ đang mang thai, nhưng để đảm bảo hiệu ứng thiểt kế, chúng tôi nhân đôi cỡ mẫu là 984, thực tế chúng tôi đã điều tra được 920 trường hợp phụ nữ đang có thai, và có con từ 0-25 tháng tuổi (đạt tỷ lệ 97,6%). b) Nghiên cứu định tính Bảng 2.1: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 1 TT Nội dung Số lượng 1 Thảo luận nhóm bà mẹ có con dưới 24 tuổi, mỗi nhóm 8-10 người 12 nhóm/12 xã 2 Thảo luận nhóm bà mẹ đang mang thai, mỗi nhóm 8-10 người 12 nhóm/12 xã 3 Thảo luận nhóm chồng/mẹ chồng, mỗi nhóm 8-10 người 12 nhóm/12 xã 4 Thảo luận nhóm lãnh đạo địa phương, các tổ chức đoàn thể, mỗi nhóm 3-5 người 12 nhóm/ 12 xã 7 2.3.2. Giai đoạn 2: nghiên cứu can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 0 - 24 tháng và đánh giá sau can thiệp 2.3.2.1. Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu trong nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu can thiệp cộng đồng không có đối chứng, có nghĩa lấy số liệu điều tra ban đầu để xác định các chỉ số sau đó can thiệp bằng truyền thông giáo dục để thay đổi kiến thức, hành vi của các bà mẹ đang cho con bú và các bà mẹ có gia đình nhưng chưa có con, đang mang thai. 2.3.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu a) Nghiên cứu định lượng Cỡ mẫu nghiên cứu trong nghiên cứu này dựa vào công thức tính cỡ mẫu ước lượng nguy cơ tương đối với độ chính xác tương đối: 𝑛 = 𝑍1−𝛼/2 2 [ (1−𝑝1) 𝑝1 + (1−𝑝2) 𝑝2 ] /[𝑙𝑜𝑔𝑒(1 − 𝜀)] 2 Trong đó: n: là cỡ mẫu cần thiết cho nhóm nghiên cứu p1: là tỷ lệ ước tính ban đầu 0,19 p2: là tỷ lệ ước tính sau can thiệp là 0,25 ε: Mức độ chính xác mong đợi. ε = 0,20 Z21-α/2: Giá trị của hệ số giới hạn tin cậy. Với α = 0,05 thì hệ số tin cậy của ước lượng là 95% và Z1-α/2 = 1,96 Tra bảng tính được cỡ mẫu tối thiểu là 267 đối tượng cho can thiệp nhưng thực thế số đối tượng bà mẹ được chọn vào nhóm nghiên cứu là 261 người (đạt 97,8%). b) Nghiên cứu định tính Bảng 2.2: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 2 TT Nội dung Số lượng 1 Thảo luận nhóm bà mẹ có con dưới 24 tuổi, mỗi nhóm 10-12 người 3 nhóm/3 huyện 2 Thảo luận nhóm bà mẹ đang mang thai, mỗi nhóm 10-12 người 3 nhóm/3 huyện 3 Thảo luận nhóm lãnh đạo địa phương, các tổ chức đoàn thể, mỗi nhóm 3-5 người 12 nhóm/ 12 xã 4 Phỏng vấn sâu 01 chủ nhiệm CLB 24 PVS/24 CLB 8 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 3.1.1. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ Bảng 3.1: Kiến thức về lựa chọn nuôi con tốt nhất sau sinh Kiến thức lựa chọn nuôi con sau sinh tốt nhất Tỉnh Cộng Hà Nam Quảng Bình Lào Cai n % n % n % n % Con bú sữa mẹ hoàn toàn Vừa bú mẹ, ăn sữa ngoài Cho ăn sữa pha Không biết 289 17 0 6 92,6 5,5 0,0 1,9 300 9 1 4 95,5 2,9 0,3 1,3 283 9 0 2 96,3 3,1 0,0 0,7 872 35 1 12 94,8 3,8 0,1 1,3 Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100 Trong 920 bà mẹ được hỏi về kiến thức lựa chọn nuôi con tốt sau sinh, 94,8% bà mẹ có kiến thức đúng là việc cho con bú sữa mẹ hoàn toàn sau sinh là tốt nhất. Tuy nhiên vẫn còn 3,8% bà mẹ cho rằng nên vừa cho trẻ bú mẹ vừa ăn sữa ngoài và 0,1% cho trẻ ăn sữa pha ngay sau khi sinh, 1,3% bà mẹ không biết. Không có sự khác nhau về kiến thức lựa chọn nuôi con sau sinh tốt nhất của bà mẹ giữa 3 tỉnh, p > 0,05. χ2 test: p<0,001 Biểu đồ 3.1: Kiến thức về thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn (n = 920) Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng là nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu rất cao (74,0%), trong đó cao nhất là tỉnh Quảng Bình (82,5%), thấp hơn ở 2 tỉnh Hà Nam và Lào Cai (lần lượt là 69,9% và 69,4%). 26,0% bà mẹ có kiến thức sai là chỉ cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn dưới 6 tháng hoặc từ 7 tháng trở lên. Sự khác biệt về kiến thức của bà mẹ về thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn là có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 69,9 82,5 69,4 74 30,1 17,5 30,6 26 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% Hà Nam Quảng Bình Lào Cai Chung Không đúng Đúng 9 Bảng 3.2: Kiến thức về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ Tỉnh Cộng Hà Nam Quảng Bình Lào Cai n % n % n % n % Giúp trẻ khỏe mạnh Bảo vệ sức khỏe cho trẻ Giúp phát triển thể lực, trí não Tốt cho hệ tiêu hóa Giúp trẻ thông minh hơn Tạo kết gắn giữa mẹ con Là biện pháp tránh thai tốt Giảm bệnh tiêu chảy ở TE Phù hợp phong tục VN 134 87 48 144 43 27 8 33 10 42,9 27,9 15,4 46,2 13,8 8,7 2,6 10,6 3,2 100 46 38 43 30 15 0 10 4 34,7 14,7 12,1 13,7 9,6 4,8 0 3,2 1,3 93 25 31 39 16 4 0 13 0 31,6 8,5 10,5 13,3 5,4 1,4 0 4,4 0 336 158 117 226 89 46 8 56 14 36,5 17,2 12,7 24,6 9,7 5,0 0,9 6,1 1,5 Một số lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ được các bà mẹ nhắc đến là giúp trẻ khỏe mạnh (36,5%), tốt cho hệ tiêu hóa của trẻ (24,6%), bảo vệ sức khỏe cho trẻ (17,2%), giúp trẻ phát triển thể lực và trì não (12,7%), giúp trẻ thông minh hơn (9,7%) và giảm bệnh tiêu chảy ở trẻ em (6,1%). Bên cạnh đó còn 1 số tác dụng quan trọng mà chưa nhiều bà mẹ biết tới là tạo sự kết gắn giữa mẹ và con (5%), là biện pháp tránh thai tốt (0,9%). Bảng 3.3: Nguồn thông tin v
Luận văn liên quan