Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các Công ty Chứng khoán Việt Nam

Với vai trò khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thị trường chứng khoán (TTCK) có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế đó là: thúc đẩy việc tích lũy, tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Hiện nay, Việt Nam có Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội với 410 loại chứng khoán niêm yết, tổng giá trị vốn hóa lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Công ty chứng khoán (CTCK) là tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của TTCK. Vai trò của CTCK được thể hiện qua các nghiệp vụ của doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động này, CTCK đã thật sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Để thực hiện xứ mệnh là một định chế tài chính trung gian và đạt được kết quả hiện nay, không thể không kể đến vai trò của tổ chức hạch toán kế toán trong các CTCK. Với mong muốn, nghiên cứu thực tế và đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các CTCK Việt Nam giúp các CTCK ngày càng phát triển bền vững trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Tôi đã chọn đề tài: “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các Công ty Chứng khoán Việt Nam

pdf17 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các Công ty Chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i MỞ ĐẦU Với vai trò khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thị trường chứng khoán (TTCK) có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế đó là: thúc đẩy việc tích lũy, tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Hiện nay, Việt Nam có Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội với 410 loại chứng khoán niêm yết, tổng giá trị vốn hóa lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Công ty chứng khoán (CTCK) là tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của TTCK. Vai trò của CTCK được thể hiện qua các nghiệp vụ của doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động này, CTCK đã thật sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Để thực hiện xứ mệnh là một định chế tài chính trung gian và đạt được kết quả hiện nay, không thể không kể đến vai trò của tổ chức hạch toán kế toán trong các CTCK. Với mong muốn, nghiên cứu thực tế và đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các CTCK Việt Nam giúp các CTCK ngày càng phát triển bền vững trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Tôi đã chọn đề tài: “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các Công ty Chứng khoán Việt Nam” ii CHƯƠNG I: TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Nghiên cứu tổng quan TTCK trên các khía cạnh Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Vai trò của TTCK, chức năng của thị trường và cấu trúc thị trường. Nguyên tắc hoạt động của thị trường và hàng hóa của thị trường chứng khoán. Luận văn nghiên cứu hàng hóa của thị trường dưới giác độ là người đi khảo sát thị trường. Đồng thời nghiên cứu chủ thể tham gia thị trường, trong đó nhấn mạnh chủ thể phát hành – nguồn cung hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Có nhiều nhân tố đảm bảo cho thị trường hoạt động thông suốt. Trong đó có nhân tố mà luận văn không thể không đề cập tới đó là các tổ chức hỗ trợ thị trường, tổ chức quản lý và giám sát thị trường. 1.2. Công ty chứng khoán Chương 1 của luận văn nghiên cứu khá sâu về CTCK trên các khía cạnh: chức năng đối với nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng; đặc trưng quản lý; các nghiệp vụ trong công ty chứng khoán. Đặc biệt là bộ khung tài chính trong công ty chứng khoán đó là tổ chức hạch toán kế toán. 1.2.1. Định nghĩa về công ty chứng khoán Ở Việt Nam, các CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập hợp pháp tại Việt Nam và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. iii 1.2.2. Vai trò của công ty chứng khoán CTCK có vai trò hết sức đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại. CTCK là trung gian tài chính, đây là các kênh chuyển vốn từ nơi dư thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. CTCK thực hiện cơ chế chuyển đổi này giúp nhà đầu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách nhanh chóng. CTCK cung cấp cho nhà đầu tư các thông tin về từng loại chứng khoán và toàn thị trường. 1.2.3. Nghiệp vụ của công ty chứng khoán CTCK thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn và lưu ký chứng khoán CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Luận văn nghiên cứu các nghiệp vụ trên các khía cạnh: quy trình hoạt động của nghiệp vụ, sản phẩm của nghiệp vụ. 1.3. Vai trò, yêu vầu và nguyên tắc tổ chức hạch toán kế toán trong quản lý CTCK Tổ chức là thành lập mối quan hệ theo một trật tự nhất định giữa các yếu tố quyết định nội dung của một hệ thống. Tổ chức hạch toán kế toán trong CTCK là việc tạo ra mối quan hệ qua lại theo một trật tự xác định giữa các yếu tố quyết định bản chất và chức năng của hạch toán kế toán. Tổ chức hạch toán kế toán trong CTCK có chức năng tổ chức hệ thống thông tin về tình hình biến động tài sản và nguồn hình thành tài sản, giám sát tình hình quản lý và sử dụng tài sản. Trong điều kiện TTCK là thị trường đòi hỏi thông tin kế toán tốc độ thì tổ chức hạch toán kế toán giữ một vai trò quan trọng. Bởi tổ chức hạch toán kế toán trong CTCK cung cấp một bộ khung cho bộ phận tài chính trong đơn vị. iv 1.4. Nội dung tổ chức hạch toán kế toán trong công ty chứng khoán 1.4.1. Tổ chức bộ máy kế toán Tổ chức bộ máy kế toán tạo quan hệ tác nghiệp giữa các cấp của bộ máy kế toán và bố trí nhân sự kế toán. Vì thế, xây dựng bộ máy kế toán phải dựa trên cơ sở là khối lượng công tác kế toán phải thực hiện và lao động kế toán trong đơn vị. 1.4.2. Tổ chức hạch toán kế toán Luận văn nghiên cứu tổ chức hệ thống chứng từ, tổ chức hệ thống tài khoản, tổ chức hệ thống sổ, báo cáo kế toán trong CTCK Việt Nam trên cơ sở lý thuyết. 1.4.3. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát hệ thống thông tin kế toán Có thể nói kiểm tra, kiểm soát hệ thống thông tin kế toán là hoạt động không thể thiếu trong CTCK. Luận văn đã khái quát hoạt động kiểm tra kiểm soát thông tin kế toán trong các công ty từ khâu tổ chức chứng từ, hạch toán và phản ánh nghiệp vụ lên báo cáo tài chính. 1.4.4. Phân tích, xử lý thông tin và sử dụng thông tin kế toán trong quản lý tại công ty chứng khoán Hiện nay, công tác phân tích, xử lý thông tin kế toán trong các CTCK được thực hiện trên cơ sở các số liệu quá khứ. Kế toán trưởng lập các báo cáo nhanh phản ánh thực trạng quá khứ. Trên cơ sở các báo cáo nhanh nhà quản trị dự báo tình hình kinh doanh trong những kỳ kế toán tiếp theo. v CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về các công ty chứng khoán Việt Nam Trước hết luận văn tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam, đặc điểm kinh doanh và kết quả kinh doanh tại hai công ty chứng khoán chọn nghiên cứu là: Công ty cổ phần chứng khoán Sài gòn đại diện cho các CTCK cổ phần và CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam đại diện cho các CTCK trực thuộc ngân hàng thương mại. Sau đó, đi sâu nghiên cứu thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại hai đơn vị. 2.2. Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán trong các CTCK Việt Nam 2.2.1. Tổ chức bộ máy kế toán Có thể nói, bộ máy kế toán trong các CTCK tương đối cồng kềnh: vừa bố trí nhân sự thực hiện kế toán giao dịch vừa đảm bảo nhân sự theo dõi chi tiêu nội bộ. Các CTCK Việt Nam đều có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, do đó bộ máy kế toán trong các CTCK được tổ chức theo kiểu phân tán. Kế toán chi nhánh có bộ sổ riêng, cuối kỳ thực hiện chuyển số liệu về cho trụ sở chính. Kế toán trụ sở chính thực hiện tổng hợp số liệu toàn công ty và tính doanh thu, lợi nhuận tổng hợp. Kế toán giao dịch tại hai công ty được bố trí giống nhau, thực hiện nghiệp vụ nộp tiền, rút tiền, chuyển khoản tiền giữa các tài khoản trong công ty và ra ngoài công ty khi có yêu cầu của nhà đầu tư trên cơ sở phê duyệt của kế toán phụ trách giao dịch. Tại CTCK Ngân hàng Công thương công việc giao dịch khách hàng do 3 kế toán đảm nhiệm, còn tại CTCK Sài Gòn có 6 kế toán viên đảm nhiệm. vi Do yêu cầu nắm bắt số liệu để xử lý công việc trong thị trường thông tin tốc độ, kế toán trưởng tại các CTCK Việt Nam hiện nay đều tổ chức kế toán nội bộ theo kiểu trực tuyến. Kế toán trưởng trực tiếp điều hành công việc các kế toán viên. Tại CTCK Sài Gòn, công tác lưu ký được tách biệt với công tác kế toán và được tổ chức thành phòng riêng do Trưởng phòng lưu ký phụ trách. Bộ máy kế toán tài chính gồm 10 kế toán. Mỗi kế toán viên có thể làm tất cả các nghiệp vụ và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của kế toán trưởng; các kế toán viên luôn luôn hỗ trợ, thay thế nhau giải quyết công việc khi có người nghỉ đột xuất hoặc làm các công việc mang tính thời điểm do kế toán trưởng phân công. Khác với CTCK Sài Gòn, kế toán lưu ký tại CTCK Công thương trực thuộc Phòng kế toán tài chính và do 5 kế toán đảm nhiệm. Công tác theo dõi chi tiêu tại CTCK Công thương do 12 kế toán viên đảm nhiệm và công việc được phân thành mảng rõ ràng, mọi công việc đều do kế toán trưởng trực tiếp điều hành quản lý. Có thể nói, một khó khăn tương đối lớn đối với hạch toán kế toán trong các CTCK Việt Nam hiện nay là phần mềm kế toán chưa thể đáp ứng tốt yêu cầu của quản lý do lượng nghiệp vụ quá lớn đồng thời phải theo dõi kết hợp hai mảng số liệu: kế toán giao dịch và kế toán nội bộ. 2.2.2. Tổ chức chứng từ Nghành kinh doanh chứng khoán là nghành đặc thù, bởi vậy, ngoài 5 loại chứng từ cơ bản, còn có thêm hai loại chứng từ đặc thù là Phiếu lệnh và chứng từ thanh toán bù trừ giao dịch chứng khoán. Tổ chức chứng từ trong các CTCK được thực hiện tương đối hợp lý trong khâu tập hợp, soát xét. Tại các CTCK, lượng nghiệp vụ lớn, nhân sự có hạn do đó khâu hậu kiểm chưa được thực hiện. vii 2.2.3. Tổ chức hệ thống tài khoản Hệ thống tài khoản của các CTCK chia làm 2 phân hệ. Phân hệ 1: tài khoản giao dịch của nhà đầu tư. Phân hệ 2: hệ thống tài khoản theo dõi số liệu nội bảng, ngoại bảng. Hệ thống tài khoản thuộc phân hệ hai được tổ chức dựa trên hệ thống tài khoản tại Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và Thông tư số 95/2008/TT-BTC ngày 24/10/2008 của Bộ Tài chính. Trong hệ thống tài khoản này, tài khoản 321 - Thanh toán bù từ giao dịch chứng khoán và tài khoản 324 – Tiền gửi giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư được coi là tài khoản đặc thù của ngành kinh doanh chứng khoán. Các công ty chứng khoán chi tiết hai tài khoản này thành: - TK 32111 - Tiền gửi thanh toán bù từ giao dịch chứng khoán (GDCK) - TK 32411 - Tiền gửi của NĐT để GDCK - TK 32421 - Tiền gửi của NĐT chờ thanh toán Để kết nối giữa hệ thống số liệu giao dịch và hệ thống số liệu nội bộ, tài khoản TK 324- Tiền gửi của nhà đầu tư sẽ tích hợp với tài khoản giao dịch cá nhân của NĐT. Mỗi loại giao dịch được mã hoá bởi một tiêu chí. Các bút toán trong từng tiêu chí lần lượt được theo dõi tham chiếu theo thứ tự số đếm tăng dần. Sau đó toàn bộ số liệu giao dịch nhận sang hệ thống nội bộ được ghi trên tài khoản đặc thù TK 321, 324. Ví dụ: Nghiệp vụ nộp tiền tại CTCK Ngân hàng Công thương và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn. Khi nhà đầu tư nộp tiền, kế toán giao dịch lập Phiếu nộp tiền và lựa chọn tiêu chí giao dịch "nộp tiền". Cuối ngày giao dịch, điện toán thực hiện điều khiển toàn bộ các bút toán trong cùng tiêu chí "nộp tiền" vào một bảng kê hạch toán nghiệp vụ nộp tiền và chuyển số liệu sang phần mền kế toán nội bộ. viii 2.2.4. Tổ chức hệ thống sổ kế toán Thao tác hạch toán kế toán trong các CTCK hiện nay hoàn toàn được thực hiện trên máy vi tính. Căn cứ vào hệ thống tài khoản đã được chi tiết, thể lệ kế toán của nhà nước. Các công ty đã tổ chức hệ thống sổ đảm bảo đúng quy chế và phù hợp với yêu cầu quản lý riêng của từng công ty. Hệ thống sổ trong CTCK được phân thành hai hệ thống: sổ chi tiết và sổ tổng hợp. Sổ chi tiết được mở cho tất cả các tài khoản chi tiết vì thế kế toán dễ dàng đối chiếu số liệu giữa các sổ. Sổ tổng hợp được thiết kế dưới dạng: Bảng cân đối tài khoản tổng hợp. Hàng ngày, căn cứ vào chứng từ đã được soát xét, kế toán xác định tài khoản ghi Nợ, tài khoản ghi Có, nội dung bút toán để nhập dữ liệu vào máy tính theo các biểu nhập chứng từ đã được thiết kế sẵn. Các thông tin sau khi cập nhật sẽ theo quy trình của phần mềm tự động được ghi vào Sổ chi tiết tài khoản và Bảng cân đối tài khoản. Tại bất kỳ thời điểm nào, khi có yêu cầu của quản lý, kế toán có thể đối chiếu số dư trên Sổ chi tiết tài khoản với Bảng cân đối tài khoản để lập báo cáo tài chính. Cuối tháng, năm Sổ chi tiết tài khoản, Bảng cân đối tài khoản được in ra, đóng thành quyển và thực hiện các thủ tục pháp lý theo quy định như sổ kế toán ghi tay. 2.2.5. Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán Hệ thống báo cáo tài chính tại các CTCK chấp hành đúng quy định về mẫu, nội dung, phương pháp tính toán, trình bày, thời gian lập và nộp báo cáo tài chính theo đúng chế độ và pháp luật hiện hành. Hệ thống báo cáo tài chính dùng trong các công ty chứng khoán gồm: ix Loại báo cáo Mẫu số Bảng cân đối kế toán B01-CTCK Báo cáo kết quả kinh doanh B02-CTCK Thuyết minh BCTC B09-CTCK Báo cáo lưu chuyển tiền tệ B03-CTCK Bộ Báo cáo tài chính quý, năm được gửi tới UBCKNN, Sở GDCK TP.Hồ Chí Minh, Sở GDCK Hà Nội, Trung tâm lưu ký theo thời hạn do UBCKNN quy định. Tại CTCK Ngân hàng Công thương Báo cáo tài chính tháng, quý, năm còn được gửi về chủ sở hữu là Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngoài ra Báo cáo tài chính năm còn được gửi đến Cơ quan thuế, Cơ quan thống kê do Bộ Tài chính quy định và các cơ quan chủ quản (nếu có). Các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán đều sử dụng phần mềm kế toán trên máy vi tính nên biểu mẫu hệ thống báo cáo tài chính đã được thiết kế sẵn trên phần mềm và được cập nhật, sửa đổi theo sự thay đổi của Chế độ kế toán. Hệ thống báo cáo quản trị, tại các công ty hiện nay loại báo cáo này mới chỉ được lập ra dưới dạng giản đơn để phục vụ yêu cầu tức thời của ban giám đốc. 2.2.6. Tổ chức hạch toán kế toán hoạt động kinh doanh - Kế toán nghiệp vụ môi giới (Sơ đồ 2.10) - Kế toán nghiệp vụ tư vấn bán đấu giá (Sơ đồ 2.11) - Kế toán nghiệp vụ tư vấn tài chính (Sơ đồ 2.12) - Kế toán nghiệp vụ tự doanh (Sơ đồ 2.13) - Kế toán hoạt động repo (Sơ đồ 2.14) - Kế toán chi phí và xác định kết quả kinh doanh (Sơ đồ 2.16, 2.17) x 2.2.7. Kiểm tra kế toán và kiểm soát thông tin kế toán Tại các CTCK Việt Nam, công việc này đã bước đầu được thực hiện. Tuy nhiên mức độ chuyên sâu chưa cao, mới được tổ chức để phục vụ cho yêu cầu quản lý trong nội bộ doanh nghiệp. Trên cơ sở khảo sát thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại CTCK Ngân hàng Công thương và Công ty chứng khoán Sài Gòn. Tôi mạnh dạn đánh giá kết quả các công ty chứng khoán đã đạt được: 2.2.8. Đánh giá thành quả đạt được: Chế độ kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán đã từng bước hoàn thiện, từ khâu tổ chức phân công lao động kế toán, tổ chức phần mềm sử dụng cho đến việc tổ chức: hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế và báo cáo kế toán đều tương đối tốt. Không có sự vi phạm về chuẩn mực, chế độ kế toán cũng như pháp luật hiện hành. Công tác kiểm tra, kiểm soát hệ thống thông tin kế toán được thực hiện đảm bảo hạn chế sai sót trong hệ thống thông tin kế toán và rủi ro trong quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh những thành quả đạt được, tổ chức hạch toán kế toán vẫn thể hiện những tồn tại nhất định. 2.2.9. Tồn tại và nguyên nhân - Tại các CTCK Việt Nam, chứng từ kế toán được tập hợp chung, lưu tổng hợp theo ngày, chưa được lưu riêng cho từng hoạt động kinh doanh, từng thương vụ. Do đó, quá trình cung cấp số liệu theo thời điểm cho nhà quản trị sẽ khó đầy đủ. - Các chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh chung được tập hợp vào tài khoản 642 ví dụ như chi phí khấu hao tài sản, chi phí tiếp khách, chi phí đối ngoại, chi phí điện, nước, điện thoại, Vì thế có những thời điểm số phát sinh Nợ trên tài khoản 642 lớn hơn tổng số phát sinh Nợ trên tài khoản 631. Cách hạch toán chi phí như vậy là chưa hợp lý. xi - Doanh thu, chi phí của từng hoạt động kinh doanh đã được theo dõi riêng, nhưng đó là số tổng hợp của từng hoạt động. Do đó, nhà quản trị chỉ nhìn thấy kết quả kinh doanh chung của bộ phận, chưa thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của từng hợp đồng, thương vụ kinh doanh. Đồng thời, nhà quản trị cũng chưa thể đánh giá năng lực của từng nhân viên kinh doanh, từng đối tác kinh doanh. Do đó, chưa thể đưa ra các chính sách khen thưởng chính đáng, kịp thời cho nhân viên trong nội bộ và đối tác bên ngoài. Đặc biệt là ở bộ phận môi giới, chỉ nhìn vào kết quả kinh doanh chung của bộ phận môi giới, thì ban lãnh đạo không thể đánh giá được năng lực của từng nhân viên để tìm ra nhân viên tiêu biểu và ban lãnh đạo đã lầm tưởng kết quả môi giới thu được là do thị trường đem lại. - Khi nhận được chứng từ kế toán mới phản ánh nghiệp vụ kinh tế cũng là không hợp lý và có một số bút toán vi phạm nguyên tắc ghi nhận doanh thu, chi phí. - Hiện nay, tại các CTCK phát sinh nghiệp vụ góp vốn để thành lập công ty cổ phần (không là cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát) với tỷ lệ 5%-10%, kế toán đang hạch toán khoản vốn góp này trên tài khoản 223 – đầu tư vào công ty liên kết. Theo thông tư 95/2008/TT-BTC ngày 24/10/2008 có ba tài khoản phản ánh nghiệp vụ góp vốn là: tài khoản 221 – đầu tư vào công ty con, tài khoản 222 – vốn góp liên doanh (góp vốn vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát), tài khoản 223 – đầu tư vào công ty liên kết. Trong đó, tài khoản 221 chỉ được dùng để hạch toán khi công ty nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết hay nắm giữ trên 50% vốn chủ sở hữu. Tài khoản 223 được dùng để phản ánh giá trị khoản đầu tư trực tiếp vào công ty liên kết, trong đó khoản đầu tư chiếm 20% - 50% vốn chủ sở hữu. Quy định như vậy đã gây khó khăn cho CTCK trong việc theo dõi các khoản góp vốn. Đồng thời khoản mục đầu tư trên báo cáo tài chính của công ty không phản ánh chính xác thông tin kinh tế. Gây trở ngại đối với các cơ quan xii chủ quản khi thống kê, tổng hợp, phân tích triển vọng của các tổ chức kinh doanh. - Hệ thống báo cáo quản trị mới chỉ đưa ra số liệu về doanh thu tổng hợp, so sánh số thực hiện với số kế hoạch. Chưa có sự so sánh giữa doanh thu đạt được và chi phí đã bỏ ra. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động dịch vụ, trong đó năng lực của nhân viên kinh doanh phải được trú trọng, nhà quản lý đánh giá năng lực của từng nhân viên dựa trên doanh số của họ. Nhưng hiện nay các CTCK chưa theo dõi và tổng hợp được doanh số này. Ví dụ: Báo cáo hoạt động tự doanh, môi giới tại CTCK Ngân hàng Công thương và CTCK Sài Gòn mới tổng hợp được doanh thu chung của bộ phận tự doanh. Chưa tổng hợp được doanh số của từng nhân viên tự doanh để đánh giá năng lực của từng nhân viên. Báo cáo hoạt động tư vấn chỉ đưa ra con số doanh thu tổng hợp, công nợ tổng hợp với đối tác. Chưa tập hợp được doanh thu, chi phí theo từng hợp đồng làm cơ sở cho việc đánh giá tiến độ thực hiện hợp đồng của từng nhóm tư vấn. xiii CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Trên cơ sở những tồn tại ở trên kết hợp nghiên cứu chiến lược phát triển TTCK Việt Nam, CTCK Việt Nam trong nền kinh tế. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp khắc phục những tồn tại đó. 3.1. Tổ chức bộ máy kế toán Thứ nhất, kế toán trưởng trong các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán cần trình ban lãnh đạo về tính cấp thiết phải bổ sung nhân lực cho phòng kế toán. Tránh tình trạng lao động căng thẳng kéo dài trong nhiều ngày, để giảm thiểu sai sót không đáng có xảy ra. Tại một số CTCK tổ chức bộ máy theo phương thức: các nhân viên có thể làm tất cả các nghiệp vụ và có thể luân phiên nhau giải quyết công việc nên tổ chức lại theo kiểu phân hóa rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng nhân viên. Tạo điều kiện cho nhân viên nghiên cứu, tìm hiểu quy chế của nhà nước, quy trình của công ty để có độ sâu trong nghiệp vụ. 3.2. Tổ chức hệ thống chứng từ Doanh nghiệp nên tổ chức tập hợp chứng từ theo từng loại hoạt động kinh doanh để làm cơ sở hạch toán. Tạo điều kiện cho việc tập hợp doanh thu, chi phí chi tiết cho từng hoạt động kinh doanh, từng thương vụ kinh doanh. Giám đốc hoặc lãnh đạo phụ trách kế toán cần ký vào phiếu hạch toán, hóa đơn giá trị gia tăng đảm bảo tính chặt chẽ trong khâu luân chuyển chứng từ và tránh trường hợp hóa đơn giá trị gia tăng được thanh toán lại hai lần. Doanh nghiệp cũng nên thành lập bộ phận hậu kiểm để kiểm tra, soát xét lại các chứng từ đảm bảo tính chặt chẽ, đầy đủ và khoa học trong việc lưu trữ chứng từ. Doanh nghiệp nên xây dựng phần mềm để thực hiện xuất hóa đơn g
Luận văn liên quan