Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng trong hoạt động thực tiễn

Trong lịch sử triết học, các nhà triết học trước hết phải giải đáp vấn đề bản chất của thế giới là gì? Là vật chất hay tinh thần? Các nhà triết học cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm lại cho rằng, bản chất của thế giới là tinh thần. Quan điểm của các nhà triết học duy vật cũng không ngừng được bổ sung và phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Kế thừa tư tưởng của nhà triết học duy vật và căn cứ vào thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đi đến khẳng định rằng: Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh. Những nội dung trên không phải là sự sáng tạo thuần túy từ tư duy của các nhà duy vật biện chứng mà nó là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên. Bản chất của vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới được chứng minh không phải bằng vài ba lời khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật mà bằng một sự phát triển lâu dài, khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.

doc17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11732 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng trong hoạt động thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: NỘI DUNG CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1.1 Quan điểm duy vật về thế giới Trong lịch sử triết học, các nhà triết học trước hết phải giải đáp vấn đề bản chất của thế giới là gì? Là vật chất hay tinh thần? Các nhà triết học cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm lại cho rằng, bản chất của thế giới là tinh thần. Quan điểm của các nhà triết học duy vật cũng không ngừng được bổ sung và phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Kế thừa tư tưởng của nhà triết học duy vật và căn cứ vào thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đi đến khẳng định rằng: Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh. Những nội dung trên không phải là sự sáng tạo thuần túy từ tư duy của các nhà duy vật biện chứng mà nó là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên. Bản chất của vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới được chứng minh không phải bằng vài ba lời khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật mà bằng một sự phát triển lâu dài, khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên. 1.2 Tính thống nhất vật chất của thế giới Đối lập với các nhà duy tâm, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng “bản chất thế giới là vật chất”, do đó điều nhận thấy đầu tiên là tính thống nhất của thế giới thể hiện ở: - Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất, đó là thế giới vật chất, không có và không thể có một thế giới không vật chất nằm cạnh thế giới vật chất. - Tất cả các sự vật hiện tượng đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất hay là những thuộc tính của vật chất. - Các sự vật hiện tượng trong thế giới đề có mối liên hệ vật chất với nhau, đều là nguyên nhân và kết quả của nhau, đều bị chi phối bởi các quy luật chung giống nhau. Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản bị tách rời nhau. Chủ nghĩa duy vật tuy có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng nhìn chung phương pháp siêu hình giữ vai trò giữ vai trò thống trị đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII. Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến đỉnh cao ở chủ nghĩa duy tâm với quan niệm về sự phát triển của "ý niệm tuyệt đối" trong triết học cổ điển Đức. Việc tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác không hiểu về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất. Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C. Mac và Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng. - Quan niệm duy vật triệt để (duy vật cả về mặt xã hội) Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ. - Tính thực tiễn - cách mạng: Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết thể hiện ở + Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới. 1.3 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức 1.3.1 Phạm trù vật chất Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm quan niệm, bản chất của thế giới là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ được quan niệm là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy. Còn chủ nghĩa duy vật quan niệm, bản chất của thế giới, thực thế của thế giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác về vật chất tuy có những ưu điểm trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại giới tự nhiên nhưng về căn bản vẫn còn nhiều hạn chế như: không hiểu chính xác bản chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không có cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội… Hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để khi giải quyết các vấn đề về giới tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy vật nhưng khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã “trượt” sang quan điểm duy tâm. Trong bối cảnh lịch sử đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Người đã vạch rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành. Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan. Thứ ba, vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người. 1.3.2 Phạm trù ý thức Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn là của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. Ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất: Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ. Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Tình cảm: là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Ý chí: là biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện. ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã chọn. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song tri thức là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác. 1.3.3 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức a. Vai trò của vật chất đối với ý thức Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với vật chất. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển lâu dài của khoa học về giới tự nhiên. Nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc của ý thức (nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội) đều là do chính bản thân thế giới vật chất hoặc là những dạng tồn tại của vật chất hình thành, cho nên vật chất là nguồn gốc của ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức. b. Vai trò của ý thức đối với vật chất Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức chỉ đạo mọi hoạt động của con người. Con người muốn thay đổi hiện thực thì con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. ý thức trang bị cho con người về mặt tri thức, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình. ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý thí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thử thách trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan. Như vậy,bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định đúng đắn hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả. 1.4 Quan điểm duy vật về xã hội Xã hội, theo quan điểm của CNDVBC, là tổng hợp những con người hiện thực cùng tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ. Đối với quá trình hình thành quan điểm duy vật về xã hội và cơ sở để xác định quan điểm duy vật về xã hội, V.I.Lênin viết: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghía duy vật về triết học, Mác đã đưa ra học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, cũng như mọi hiện tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định. Nội dung cơ bản quan điểm duy vật về xã hội thể hiện: - Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của xã hội thể hiện ở chỗ xã hội có những quy luật vận động, phát triển riêng và sự vận động, phát triển của xã hội phải thông qua hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những mục đích nhất định. - Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần, nói chung tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Triết học Mác đã khẳng định rằng, chỗ khác nhau căn bản giữa con người với động vật là con người không chỉ dựa vào những cái đã có sẵn trong tự nhiên mà bằng lao động sản xuất, tác động tích cực vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho đời sống của mình. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất ấy quyết định sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Sự thay đổi phương thức sản xuất sớm muộn sẽ làm thay đổi các mặt khác của đời sống xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không chỉ gắn liền với một phương thức sản xuất nhất định mà còn gắn liền với điều kiện tự nhiên, dân số và những điều kiện sinh hoạt vật chất khác. Toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất ấy tạo thành tồn tại xã hội. Triết học Mác khẳng định: “không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. - Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên Theo quan điểm của CNDVBC, một xã hội trọn vẹn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể là một hình tháI kinh tế – xã hội, mỗi hình thái kinh tế – xã hội gồm những mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Lúc này, kết cấu kinh tế, tức cơ sở hạ tầng của xã hội thay đổi. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Đến đây, tất cả các mặt cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế – xã hội đã thay đổi. Hình thái kinh tế – xã hội này đã chuyển sang một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn. Như vậy, với tư cách là một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, sự vận động, phát triển của xã hội vừa chịu sự chi phối của các quy luật chung nhất chi phối toàn bộ thế giới vật chất, vừa chịu sự chi phối của các quy luật riêng có của mình. Trước hết và quan trọng nhất là quy luật về lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng. Những quy luật này làm sự vận động và phát triển của xã hội loài người biểu hiện là một quá trình lịch sử tự nhiên trên nền tảng sản xuất ra của cải vật chất. - Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Khi khẳng định sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định đời sống tinh thần nói chung, đời sống chính trị nói riêng, và khẳng định sự phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự nhiên được bắt đầu bằng sự phát triển của lực lượng sản xuất thì CNDVBC cũng đã khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Vai trò ấy của quần chúng nhân dân biểu hiện cụ thể ở chỗ quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần. Như vậy, quan điểm duy vật về xã hội là một hệ thống quan điểm thống nhất chặt chẽ với nhau về sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của xã hội và các lực lượng thực hiện những nhiệm vụ lịch sử đặt ra trong sự vận động và phát triển ấy. Phần II: VAI TRÒ CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN 2.1 Tôn trọng hiện thực khách quan Khách quan là một trong các nguyên tắc quan trọng của quá trình nhận thức. Nó đòi hỏi việc nhận thức phải dựa vào những cơ sở thực tế khách quan, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ những thuộc tính và mối quan hệ vốn có của nó. Từ những quy luật vận động và phát triển của bản thân, không thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, đồng thời không được cắt xén, không được gán ghép cho sự vật, hiện tượng những gì mà chúng vốn không có. Tự nhiên, xã hội và tư duy luôn nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật tất yếu, vốn có của chúng. Vì vậy, để nhận thức được bản chất của sự vật, ngoài các nguyên tắc trên, tư duy còn phải tuân thủ nguyên tắc phát triển. Nguyên tắc này quy định tính tất yếu phải nghiên cứu sự vật trong sự vận động và phát triển theo những quy luật phổ biến, khách quan vốn có, chỉ ra chiều hướng biến đổi của nó. Mặt khác, nguyên tắc này còn giúp cho tư duy trở nên năng động, linh hoạt, mềm dẻo; khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ và máy móc. Lôgíc biện chứng chỉ cho chúng ta thấy được sự phát triển biện chứng của nhận thức khoa học. Các khái niệm, định luật, lý thuyết tất yếu được bổ sung, điều chỉnh, phát triển trong quá trình nhận thức, trong lịch sử phát triển của khoa học. Những khái niệm, định luật, lý thuyết mới này không phủ nhận hoàn toàn các khái niệm, định luật, lý thuyết cũ mà có sự kế thừa những giá trị hợp lý, coi chúng như những trường hợp đặc biệt. Vì thế, không nên có thái độ xem những tri thức đã có của con người như những chân lý tuyệt đích, cuối cùng. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có quá trình hình thành và phát triển, đều có lịch sử của mình và bao giờ cũng tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lôgíc biện chứng chỉ rằng, "không có chân lý trừu tượng”, rằng “chân lý luôn luôn là cụ thể". Nguyên tắc lịch sử - cụ thể chỉ cho người học thấy rằng, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển của chúng, chỉ ra mối liên hệ nội tại của chúng, cũng như mối liên hệ giữa chúng với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nắm vững nguyên tắc lịch sử - cụ thể giúp cho người học có thể xem xét, nghiên cứu đối tượng nhận thức gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định, biết vận dụng những học thuyết, những nguyên lý, công thức một cách sáng tạo, tránh rơi vào các căn bệnh giáo điều, kinh nghiệm, máy móc. Việc quán triệt nguyên tắc tôn trọng hiện thực khách quan giúp chúng ta thấy được rằng phải quan sát sự vật và hiện tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí nghiệm khoa học để có được những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học đúng đắn. Những kết quả nghiên cứu phải được đối chiếu, so sánh và đánh giá có phù hợp với hiện thực khách quan hay không? Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, việc tôn trọng thực tiễn khách quan là một nguyên tắc sống còn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lớn mạnh cần phải nhận định được vị thế hiện tại của mình, thực tiễn hoạt động kinh doanh, điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp và tương quan cạnh tranh của nó với các đối thủ trên thị trường. Nếu việc đưa ra các quyết định, chính sách, chiến lược kinh doanh chỉ dựa trên suy nghĩ chủ quan, duy ý chí của người lãnh đạo doanh nghiệp mà không dựa vào thực tiễn kinh doanh thì thất bại là tất yếu, nếu có giành được thành công thì chỉ là do may mắn. Ở một số doanh nghiệp, khi thảo luận một vấn đề nào đó ý kiến của người có chức vụ lớn hơn, tuổi tác cao hơn thường được coi trọng hơn ý kiến của người có chức vụ nhỏ hơn, tuổi tác trẻ hơn. Đó là điều không hợp lý. Những người có chức vụ lớn hơn, tuổi tác cao hơn thì có nhiều kiến thức, kinh nghiệm hơn, những điều đó không có nghĩa là những người có chức vụ thấp hơn, tuổi tác trẻ hơn, được đào tạo có hệ thống, cọ xát nhiều với thực tế không thể có những ý kiến xác đáng. Một ý kiến đúng hay không đúng không phải là do xuất xứ của nó mà là ở nội dung của ý kiến đó. Đối với các doanh nghiệp, việc lắng nghe ý kiến của CBCNV, ý kiến khách hàng, ý kiến đối tác, ý kiến cơ quan quản lý cũng rất quan trọng và bổ ích. Bởi vì, với việc lắng nghe những ý kiến đó, doanh nghiệp sẽ bám sát được tình hình thực tiễn của hoạt động kinh doanh, từ đó có những điều chỉnh cải thiện công việc kinh doanh cho phù
Luận văn liên quan