Vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam

Hôn nhân là hiện tượng xã hội mà luôn luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hôn cũng là một mặt trái của quan hệ hôn nhân. Tuy vậy, nó cũng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một phần gọi là chế định hôn nhân, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ năm 1945 đến nay quy định vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa giải quyết lý do ly hôn bằng tình, bằng pháp luật Nhà nước kiểm soát quyền tự do ly hôn vì lợi ích gia đình và xã hội. Tuy nhiên, sau khi ly hôn, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của vợ chồng, nhất là quyền và lợi ích của phụ nữ, của người vợ là vấn đề cần phải quan tâm. V.I Lênin đã từng khẳng định: “Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ, không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ- tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ được tự do bỏ chồng, thì không phải ta khuyên tất cả họ bỏ chồng”. Xuất phát từ lý do đó, vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc ly hôn cần được làm sáng tỏ.

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2143 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở bài Hôn nhân là hiện tượng xã hội mà luôn luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hôn cũng là một mặt trái của quan hệ hôn nhân. Tuy vậy, nó cũng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một phần gọi là chế định hôn nhân, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ năm 1945 đến nay quy định vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa giải quyết lý do ly hôn bằng tình, bằng pháp luật Nhà nước kiểm soát quyền tự do ly hôn vì lợi ích gia đình và xã hội. Tuy nhiên, sau khi ly hôn, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của vợ chồng, nhất là quyền và lợi ích của phụ nữ, của người vợ là vấn đề cần phải quan tâm. V.I Lênin đã từng khẳng định: “Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ, không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ- tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ được tự do bỏ chồng, thì không phải ta khuyên tất cả họ bỏ chồng”. Xuất phát từ lý do đó, vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc ly hôn cần được làm sáng tỏ. B. Nội dung. I. Những vấn đề chung về quyền Phụ nữ và Ly hôn : 1.Các khái niệm về quyền phụ nữ : a. Khái niệm quyền phụ nữ. Trong các luật về HN&GĐ của chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa, quyền của phụ nữ không được đề cao, nếu có quy định cũng rất hạn chế, bởi những tư tưởng lạc hậu ngự trị thời kỳ đó: “Trọng nam khinh nữ”, “chỉ coi quan hệ hôn nhân như là những bản hợp đồng mang tính chất hàng hoá- tiền tệ”. Với những nhận thức đúng đắn của các nhà làm luật hiện đại về quyền của phụ nữ, thì quyền của phụ nữ được đề cao, nhất là những quyền về hôn nhân gia đình, biểu hiện rõ nhất bước đột phá này là bằng những chế định pháp luật hôn nhân, pháp luật đã quy định cụ thể về việc thực hiện và bảo đảm việc thực hiện các quyền của phụ nữ trên thực tế. Khoa học pháp lý đã đưa ra nhiều khái niệm, quan điểm khác nhau về Quyền phụ nữ. khái niệm này cũng được đưa ra trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các thầy cô trực tiếp làm công tác giảng dạy pháp luật. Vậy, Quyền phụ nữ là gì? “Quyền phụ nữ là một khái niệm dùng để chỉ các quyền con người của phụ nữ. b, Bảo vệ quyền phụ nữ. Chúng ta đều biết, việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong các cổ luật cũng đã được đặt ra, nhưng mức độ và quy mô bảo vệ rất hạn chế, hầu như các nhà làm luật chưa thể nhận thức được vai trò quan trọng của phụ nữ. Với việc coi trọng và đề cao người phụ nữ, Luật HN&GĐ2000, đã đề cao vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ, nhằm giúp phụ nữ phát triển về mọi mặt, đóng góp công sức của mình vào xu thế phát triển chung của xã hội. Xuất phát từ mục tiêu đó, “bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng trước hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và phải bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới”. (Trích Bùi Thị Mừng - bảo vệ Quyền phụ nữ theo Luật HN&GĐ Việt Nam 2000, Luận văn Thạc sĩ luật học 2003). 2. Các khái niệm về ly hôn: Khái niệm ly hôn: Khái niệm ly hôn được quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Ly hôn là chấm đứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoắc của cả hai vợ chồng.” Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. * Căn cứ ly hôn do một bên vợ hoặc chồng nộp đơn xin ly hôn: - Điều 89. Luật hôn nhân gia đình - Căn cứ cho ly hôn: “ 1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” - Nghị quyết 02/2000/NQ -HĐTP ngày 23-12-2000 của Tòa án nhân dân tối cao có một số qui định nhằm làm rõ cụm từ “tình trạng trầm trọng,đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Được coi là tình trạng trầm trọng của vợ chồng khi: Vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như: Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: Thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ chồng không chung thủy với nhau như: Có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình. Để có những cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như đã phân tích ở trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. - Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định căn cứ thứ hai: để tòa án giải quyết việc ly hôn: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn”. Trong thực tiễn xét xử các án kiện ly hôn nhiều năm qua ở nước ta, khi chưa có Bộ luật dân sự năm 1995 tòa án vẫn giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự khi vợ, chồng của họ đã bị tuyên bố mất tích”.Khi Tòa án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lí tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng qui định tại Điều 89 Bộ luật dân sự 1995. * Trường hợp thuận tình ly hôn - Điều 90.Thuận tình ly hôn: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định” Như vậy, việc pháp luật qui định và công nhận sự thuận tình ly hôn của hai vợ chồng là nhằm giải quyết và chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột trầm trọng trong cuộc sống vợ chồng mà từ đó, mục đích của hôn nhân không đạt được, ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và các thành viên khác trong gia đình. Tuy nhiên, vợ chồng không thể xin ly hôn một cách tùy tiện,vô trách nhiệm mà phải phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội trên cơ sở cân nhắc đến lợi ích chung của gia đình con cái.Cũng theo Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện của cả hai vợ chồng, đòi hỏi vợ chồng còn phải có sự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu vợ chồng không thể thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.Bên cạnh những trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có nhiều trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát từ ý chí của một bên vợ chồng mà không có sự thuận tình của bên kia vì những lí do khác nhau: do không nhận thức được mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, trầm trọng, quan hệ hôn nhân đã tan vỡ hoặc có thể nhận thức được nhưng vẫn không muốn ly hôn vì động cơ nào đó như quyền lợi con cái …Theo qui định tại Điều 91, khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn.Về nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử cho ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, xét về bản chất giải quyết việc ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn hoặc mội bên vợ chồng yêu cầu là giống nhau. II. Vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong việc ly hôn: 1. Nguyên nhân của việc bảo vệ Quyền của phụ nữ trong việc ly hôn. Thứ nhất, với những tư tưởng lạc hậu về hôn nhân và gia đình, về vấn đề giới, vẫn còn hiển hiện trong cuộc sống gia đình thời hiện đại. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải loại bỏ triệt để nó ra khỏi đời sống xã hội, điều đầu tiên chúng ta phải làm là định hướng lại những tư tưởng của xã hội về vấn đề giới, về hôn nhân gia đình- chính là tồn tại xã hội, bởi đây là nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về giới, dẫn đến bạo lực gia đình và mâu thuẫn gia đình nảy sinh, ly hôn là điều không thể tránh khỏi. Nhưng vấn đề ly hôn xảy ra, nạn nhân phải hứng chịu hậu quả không ai khác là phụ nữ. Như vậy, trước hết bảo vệ quyền của phụ nữ trong giải quyết ly hôn, phải xuất phát từ việc khắc phục những tổn thương mà người phụ nữ phải hứng chịu. Thứ hai, sau khi ly hôn, vấn đề ổn định cuộc sống là một bài toán nan giải đặt ra với các cặp vợ chồng, nhất là đối với người phụ nữ, vì họ là bộ phận đặc biệt của xã hội, khả năng tự lập không thể cao bằng những người đàn ông, họ rất dễ nhạy cảm về những hoàn cảnh khách quan và chủ quan của gia đình và xã hội. Theo báo cáo công tác xét xử của TANDTP Hà Nội năm 2003, toàn ngành đã thụ lý 3936 vụ án hôn nhân và gia đình và đã giải quyết 3803 vụ, đạt tỷ lệ 96,6%, (số liệu cụ thể trong bảo vệ Quyền phụ nữ theo Luật HN&GĐ Việt Nam2000- Bùi Thị Mừng) Như vậy, có thể nói, thành công trong công tác xét xử cũng có sự đóng góp của Luật HN&GĐ. Theo đó, những bản án thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, sẽ giúp họ tự tin trước cuộc sống, tin tưởng rằng pháp luật luôn bên cạnh họ, bảo vệ quyền lợi cho họ. Thứ ba, trên thực tế, vấn đề tài sản và xác định tài sản khi có tranh chấp xảy ra là vấn đề hết sức phức tạp, nhất là đối với việc xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn, theo đó, một mặt chúng ta vừa phải bảo đảm quyền của người chồng, mặt khác vừa phải bảo vệ quyền của phụ nữ- nhóm quan hệ xã hội đặc biệt. Nếu việc xác định tài sản chung của vợ chồng không chính xác là nguyên nhân dẫn đến cách giải quyết không đúng, không bảo vệ được quyền lợi của các đương sự, nhất là đối với người phụ nữ- đối tượng luôn được hưởng sự quan tâm từ phía Nhà nước, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, vấn đề xác định công sức đóng góp cho các bên khi giải quyết việc ly hôn cũng là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Do vậy, Luật HN&GĐ2000 cũng có quy định nguyên tắc chia tài sản chung “căn cứ vào công sức đóng góp”, nhằm thực hiện việc bảo vệ tốt quyền lợi của phụ nữ. Như vậy, nguyên nhân tiếp theo của việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn là nhằm tạo ra sự hoàn thiện của pháp luật về chế định HN&GĐ, từ đó, tạo ra cơ sở pháp lý cho người phụ nữ có thể tham gia tốt các lĩnh vực của xã hội, nhằm hoàn thiện bản thân để có thể đối mặt với vấn đề ly hôn đang diễn biến phức tạp- một trong những mặt trái của hôn nhân, tiềm ẩn trong chính cuộc sống của người phụ nữ, cũng như là để bảo vệ người phụ nữ khỏi những tệ nạn xã hội khi hôn nhân chấm dứt và người phụ nữ phải tự mình bươn trải cho cuộc sống của mình. Thứ tư, Luật HN&GĐ2000 có quy định: trong trường hợp vợ chồng ly hôn, việc nuôi con do hai bên tự quyết định theo thỏa thuận, trong trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Nếu sau khi ly hôn, mà giao con cho người vợ nuôi, thì bên còn lại (người chồng) có nghĩa vụ cấp dưỡng. Với quy định này của pháp luật, pháp luật đã bảo vệ quyền lợi của phụ nữ đối với thiên chức làm mẹ của họ. Như vậy, một nguyên nhân nữa của việc bảo vệ là phải bảo đảm thiên chức làm mẹ của người phụ nữ, bởi vì, người phụ nữ luôn là đối tượng có đời sống nội tâm sâu sắc, hiểu biết tâm tư, nguyện vọng của các con hơn ai hết, do vậy, việc giao con cho người phụ nữ chăm sóc, nuôi dưỡng một mặt, đảm bảo quyền của phụ nữ, mặt khác cũng bảo đảm sự phát triển bình thường về tâm sinh lý các con. Thứ năm, như chúng ta đã biết, quyền tự do kết hôn, tự do yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ chồng. Vậy bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn còn là phải bảo vệ quyền nhân thân cho người phụ nữ và cụ thể trong trường hợp này là bảo vệ quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ. Như vậy, trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến việc phải bảo vệ quyền của phụ nữ trong giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn. Trên cơ sở những nguyên nhân này, chúng ta phải đặt ra vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong thực tế giải quyết các vụ án ly hôn, cũng như những phương diện cần bảo vệ quyền của phụ nữ trong giải quyết ly hôn hay nói cách khác, bảo vệ quyền của phụ nữ trên những lĩnh vực nào trong giải quyết ly hôn. 2. Những lĩnh vực bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc ly hôn. a) Bảo vệ phụ nữ thế hiện qua quyền yêu cầu ly hôn. Điều 85 Luật hôn nhân gia đình2000quy định quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn: “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn; 2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.” Quy định này là hoàn toàn cần thiết. Các nhà làm luật muốn gắn trách nhiệm của người chồng với người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ gắn liền với quá trình mang thai, chăm sóc và nuôi dưỡng con. Nhận định được điều này, luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện hành dành sự quan tâm đặc biệt đến quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong thời kỳ phụ nữa mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Người phụ nữ trong thời kỳ này là thời kỳ rất nhạy cảm, thay đổi về tâm sinh lý, gặp nhiều khó khăn về vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống. Một người chồng ở bên cạnh là rất cần thiết để giúp người phụ nữ hoàn thành trọng trách thiêng liêng của một người mẹ. Đứa trẻ trong thời kỳ này cũng cần sự chăm sóc đặc biệt hơn vì tình trạng non yếu, mong manh của nó. Hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong thời kỳ này là hoàn toàn phù hợp, bởi ly hôn thường để lại cho người phụ nữ và trẻ em những gánh nặng tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ nữ, làm cho họ không đảm bảo sức khỏe sinh sản để mang thai và làm mẹ an toàn, tác động nghiêm trọng đến cuộc sống vật chất và tinh thần của trẻ nhỏ, nên hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng là hoàn toàn cần thiết. Điều luật không được áp dụng trong trường hợp người xin ly hôn lại là người vợ. Điều này tạo điều kiện cho người vợ, một khi quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng phức tạp và chỉ làm cho người vợ thêm đau khổ, thì vợ có quyền lựa chọn và xin ly hôn. Đây là điểm hợp lý, cho người vợ có quyền chọn và quyết định trong mọi trường hợp. Nhưng cũng chính vì điểm này liên quan đến vấn đề nhân thân, tình cảm của các cặp vợ chồng là chính, nên khi giải quyết vấn đề ly hôn trong trường hợp này, các cán bộ xét xử lại càng phải điều tra rõ thực chất mối quan hệ vợ chồng như thế nào và xem xét đến lợi ích của người đang mang thai và nuôi con nhỏ, để khi quyết định ly hôn hay bác đơn ly hôn của người vợ là thực sự xuất phát từ việc bảo vệ quyền, lợi ích của bà mẹ và trẻ em. Phải đảm bảo áp dụng để làm sao quy định này thực sự vừa giải phóng phụ nữ, vừa đảm bảo ảnh hưởng ít nhất đến việc nuôi dưỡng con nhỏ và thai nhi Điều luật không được áp dụng trong trường hợp người xin ly hôn lại là người vợ, tuy nhiên vì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn, có vẻ như việc ly hôn do cả vợ và chồng cùng yêu cầu cũng không thể được tòa án thụ lý chừng nào người vợ còn đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Càng khó có thể được tòa án tiếp nhận đơn yêu cầu của người chồng có chữ ký của người vợ trong hoàn cảnh đó. Trái lại, đơn vẫn có thể tiếp nhận, nếu người đứng đơn là người vợ và đơn được nộp với sụ chứng nhận của người chồng. Kể cả vợ đang mang thai với người khác hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi với người khác thì người chồng cũng không có quyền ly hôn. Nếu trong trường hợp này mà người chồng có yêu cầu ly hôn thì giải quyết như sau: + Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án: Tòa án áp dụng Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 để trả lại đơn ly hôn cho người nộp đơn. + Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì tòa án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút yêu cầu ly hôn thì áp dụng Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 và quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu ly hôn thì tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác đơn yêu cầu ly hôn của họ. b) Bảo vệ quyền của phụ nữ khi chia tài sản trong việc ly hôn. Khi chia tài sản chung của vợ chồng, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên mà bị tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, đảm bảo cho họ được ổn định cuộc sống(điểm b, khoản 2, Điều 95 Luật HN&GĐ2000). Như vậy, để thực hiện tốt quy định này nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ cần phải quán triệt nguyên tắc “dù đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền có nhà ở; việc tạo điều kiện về nhu cầu cư trú cho mỗi bên có chỗ ở ổn định cuộc sống, nhất là đối với các con và bất kỳ trong trường hợp nào cũng không được để vợ và các con ra khỏi nhà khi họ thật sự chưa có chỗ ở”. Luật HN&GĐ1986 cũng có quy định về việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn: “Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp”(điều 42). Như vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về việc bảo vệ quyền của phụ nữ về tài sản khi ly hôn, điều này phù hợp với chủ trương của Đảng ta. Trong trường hợp chia tài sản của vợ chồng sống chung mà ly hôn(Điều 96, Luật HN&GĐ2000), cũng phải đảm bảo được quyền lợi của phụ nữ, căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình: Ví dụ, vụ ly hôn giữa anh L và chị H. Trước khi ly hôn, anh chị có đưa cho bố mẹ L một số tiền để xây nhà. Khi anh L có đơn yêu cầu T.A giải quyết ly hôn, chị H cho rằng ngôi nhà đó là tài sản chung của vợ chồng. Sau khi xác minh T.A có căn cứ cho rằng ngôi nhà đó thuộc quyền sở hữu của bố mẹ anh L, hiện 2 cụ vẫn sống trong ngôi nhà đó, chưa tuyên bố giao nhà cho anh chị. Nhưng chị H đã có công đóng góp xây dựng ngôi nhà, nên sẽ được hưởng phần giá trị tương ứng. Sau khi hội đồng định giá tài sản xác định ngôi nhà có giá trị 800 triệu VNĐ, T.A quyết định chị H được hưởng 1/5 giá trị ngôi nhà với số tiền là 160 triệu VNĐ. Như vậy quyết định của TA là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật, vừa bảo vệ quyền lợi của bố mẹ anh L, vừa bảo vệ được quyền lợi của chị H. Trong nhiều trường h
Luận văn liên quan