Văn hóa đô thị - Đại đô thị New York

Năm 1524 khi Giovannida Verazzano khám phá ra vùng đất New York , nơi đây có khoảng 500 cư dân bản địa Lenape sinh sống .Verazzano , nhà thám hiểm người ý phục vụ cho vương triều Pháp đã gọi vùng này là Nouvelle “Angoulême”. Thành phố có tên gọi là new York từ khi nó trở thành điểm giao dịch thương mại của người Hà Lan , Henrhudson, người khám phá quốc tịch anh được người Hà Lan thuê tìm ra con đường tới phương Đông ngắn hơn đã tìm tới đây vào năm 1609. Ông nhận ra khả năng tiềm tang về lĩnh vực thương mại tại đây khi ông thấy vịnh được che chắn an toàn và có dòng chảy vào đó . Những người bản địa đã bắt đầu chào đón họ và bắt đầu công việc kinh doanh lông thú mang lại lợi nhuận cao . Vì vậy, New York được khai sinh từ chức năng cảng biển . Năm 1626 , tổng điều tra thuộc địa Hà Lan là Petr minuit đã mua lại đảo MANHATTAN từ người Lenape. Với tên gọi Nouvell Amstesdam , 40 năm sau (1666) là thành phố người Anh với tên gọi là New York . Thành phố New York phát triển chính yếu như một cảnh dưới thời kỳ cai trị của đế quốc Anh . Việc mở kênh đào Erie’ năm 1825 nối NEW York với đại hồ thong ra biển Đại Tây Dương , làm cho New York trở thành thủ đô kinh tế và tài chính của nước Mỹ . Từ năm 1825-1930 , trong vòng một thế kỷ đô thị kết nối New York từ 200 nghìn dân tăng lên 11 triệu dân (gấp 55 lần )trong khi các cảng biển khác ở vùng Đông Bắc Mỹ như Philadelphie cũng tăng gấp 30 lần , Boston gần 40 lần và Baltimor 10 lần

docx35 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3417 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn hóa đô thị - Đại đô thị New York, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HÓA HỌC DANH SÁCH NHÓM Hoàng Thị Giang 1056140004 Huỳnh Thị Hiền 1056140008 Tô Thị Hoàng 1056140013 Nguyễn Thị Hòa Bình 1056140069 THỜI GIAN VĂN HÓA ĐÔ THỊ Điều kiện hình thành Về kinh tế : xuất hiện các hoạt động trao đổi thương mại. Về xã hội : phân công lao động xã hội và nghề nghệp phát triển. Vế dân số : mật độ bình quân cao 2.500 dân. Về tổ chức : các bộ máy quyền lực điều hành, quản lý các hoạt động trên phạm vi lãnh thổ. Sự ra đời và quá trình phát triển Năm 1524 khi Giovannida Verazzano khám phá ra vùng đất New York , nơi đây có khoảng 500 cư dân bản địa Lenape sinh sống .Verazzano , nhà thám hiểm người ý phục vụ cho vương triều Pháp đã gọi vùng này là Nouvelle “Angoulême”. Thành phố có tên gọi là new York từ khi nó trở thành điểm giao dịch thương mại của người Hà Lan , Henrhudson, người khám phá quốc tịch anh được người Hà Lan thuê tìm ra con đường tới phương Đông ngắn hơn đã tìm tới đây vào năm 1609. Ông nhận ra khả năng tiềm tang về lĩnh vực thương mại tại đây khi ông thấy vịnh được che chắn an toàn và có dòng chảy vào đó . Những người bản địa đã bắt đầu chào đón họ và bắt đầu công việc kinh doanh lông thú mang lại lợi nhuận cao . Vì vậy, New York được khai sinh từ chức năng cảng biển . Năm 1626 , tổng điều tra thuộc địa Hà Lan là Petr minuit đã mua lại đảo MANHATTAN từ người Lenape. Với tên gọi Nouvell Amstesdam , 40 năm sau (1666) là thành phố người Anh với tên gọi là New York . Thành phố New York phát triển chính yếu như một cảnh dưới thời kỳ cai trị của đế quốc Anh . Việc mở kênh đào Erie’ năm 1825 nối NEW York với đại hồ thong ra biển Đại Tây Dương , làm cho New York trở thành thủ đô kinh tế và tài chính của nước Mỹ . Từ năm 1825-1930 , trong vòng một thế kỷ đô thị kết nối New York từ 200 nghìn dân tăng lên 11 triệu dân (gấp 55 lần )trong khi các cảng biển khác ở vùng Đông Bắc Mỹ như Philadelphie cũng tăng gấp 30 lần , Boston gần 40 lần và Baltimor 10 lần . Thế kỷ 19 , thành phố chuyển mình nhờ những làn sóng nhập cư cùng những phát triển mạnh mẽ . Năm 1898 thành phố hiện đại New York được thành lập với sự kết hợp của Brooklyn , quận New York , quận Richmond và phần phía tây quận Queens. Thập niên 1920 New York qua mặt London trở thành đô thị đông dân nhất trên thế giới và vùng đô thị vượt mức 10 triệu người vào đầu thập niên 1930, trở thành siêu đô thị đầu tiên trong lịch sử loài người . Năm 1950 , phố Wall của người New York đưa nước Mỹ lên cao trong vai trò cường quốc thống trị kinh tế thế giới, và hoàn thành tổng hành dinh Liên Hợp Quốc . Trong năm 1960 New York phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế , tỉ lệ tội phạm và căng thẳng sắc tộc gia tăng . Thập niên 1980 sự sống lại của nền công nghiệp tài chính đã cải thiện sức mạnh của đô thị . Sự xuất hiện của cac hành lang điận tử , xuất hiện trong nền kinh tế thành phố và dân số New York đạt một đỉnh điểm cao chưa từng có trong năm 2000. Đặc trưng văn hóa đô thị New York Ở Tây Âu , cuộc cách mạng công nghiệp và thời kỳ tích tụ tư bản ở đô thị từ thương mại dựa trên hệ thống thành thị có từ trước đó . Ở Bắc Mỹ khác thành thị xuất hiện chủ yếu là một sự kiện địa lý , thuộc dạng sơ khai , đơn giản ở Châu Âu . Hai đặc điẻm của đô thị ở Bắc Mỹ khác với đô thị lớn ở Châu Âu là khác biệt về chức năng kinh tế hiện đại và chức năng cư trú , cùng với việc tổ chức giao thông . Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai , hai dải đất ven biển ở tây nam ( California ) và ở đông bắc hình thành hai cực của đời sống kinh tế và văn hóa nước Mỹ . Từ trước chiến tranh , các thủ phủ Washington , Phialadelphie, New York và Boston ở vùng duyên hải Đại Tây Dương dài 600 km , có 18 triệu thị dân , trong đó hơn một nửa thuộc đô thị liên hiệp New York New York là vùng đô thị kết nối lớn nhất thế giới với 12 triệu dân , trong đó 7.5 triệu thuộc khu vực trung tâm đô thị . New York nằm trong vùng đô thị rộng lớn , dọc bờ biển Đại Tây Dương , từ Baltimore và thủ đô lien bang Wáhington đến Boston . Nó là thành thị biểu trưng của nước Mỹ , mặc dù đây không phải là đô thị chính trị , song là nơi đặt trụ sở Liên Hiệp Quốc . New York xây dựng các công trình lớn về tài chính , thương mại và công nghiệp và là nơi tập trung lớn về tư bản. Tuy nhiên , đây cũng là nơi khai mão nhiều cuộc khủng hoảng . chính sách kinh tế Mỹ và chính sách MỸ đều được tiến hành ở New York . Chức năng cơ bản của New York là chức năng tài chính thế giới . Một nhóm không nhỏ tới 10 tổ chức điều hành toàn bộ công việc kinh doanh lớn và công nghiệp quốc tế , với các ngân hang kinh doanh , các trusts công nghiệp và các văn phòng tài chính quốc tế , làm cho New York trở thành thủ đô thế giới hơn là của nước Mỹ. Tuy vậy New York được khai sinh từ chức năng cảnh biển , hoạt động cảng biển góp phần sinh ra chức năng công nghiệp . Quan hệ giữa chức năng cảng biển và sự phát triển công nghiệp phát triển hơn ở châu âu . New York còn là cảng chính của người châu âu nhập cư vào Mỹ , biển nơi đây thành trung tân tuyển dụng lao động thường trực trong suốt thế kỷ xx. Liên hiệp đô thị New York chiếm ít nhất là một triệu cônh nhân công nghiệp.Tước khi ban hành lệnh hạn chế nhập cư , New York gồm 4\5 dân cư sinh ra ở ngoài nước Mỹ hoặc có cha mẹ là người nhập cư , đây cũng là nơi có nhiều người Do Thái nhất thế giới với hơn một triệu người . Đây cũng là thành phố có người Iralandes nhất thế giới , và cũng la thành phố có đông người ý đứng sau Rôma và Milan. Thành phố trung tâm New York gồm 5 khu vực lân cận là : Manhattan, Brôklyn , Queens, Richmond và Bronx trong bán kính hơn 50 km quanh Manhattan. Về giao thông vận tải : hơn một nửa dân số vùng đô thị kết nối nằm trong quầng đô thị cách trung tâm hơn 30 km . Vận chuyển hang ngày từ ngoại vi vào trung tâm và ở bên trong đô thị được thực hiện bằng đường sắt , metro và xe buýt trong đó metrô chiếm ưu thế đưa hoặc đón khách . Công thức vận chuyển ở đô thị đầu tiên sau Tramway là đường sắt trên cao rất ồn ào và kềnh càng dần dần biến mất thay thế bằng đường hầm chỉ ngoi lên mặt đất khi ra ngoài trung tân thành phố . Về đường sắt có 3 hệ thống chính yếu và hệ thống Amtrak :Đường sắt Long ISLAD , đường sắt Metrô – North và Newjersy.Trong các đô thị lớn ở Mỹ và úc , tỷ lệ giữa lượng xe hơi lưu thông và tổng dân số vượt quá 1\4 hoặc 1\3 nhất là ở Los Angles. Về kiến trúc :kiểu kiến trúc phổ biến nhất là những tòa nhà chọc trời . New York có những tòa nhà với những nổi bật mang nhiều phong cách khác nhau Về công viên : có trên 110 km2 đất công viên thành phố và 23 km bãi sông , bãi biển công cộng Về các quận : có 5 quận chính là Manhattan, Brooklyn , Queens , The Broonx , Đảo Staten. Về giải trí và nghệ thuật biểu diễn : New York có vai trò quan trọng đối với nền điện ảnh Mỹ . Ngày nay New York là trung tâm điện ảnh thứ hai của nghành công nghiệp điên ảnh Hoa KỲ . Về du lịch : Với khoảng 47 triệu du khách Mỹ và ngoại quốc viếng thăm hàng năm , du lịch đóng vai trò quan trọng đối với New York . Những địa điẻm chính như:Tà nhà Empire State, các bảo tàng , các công viên trung tâm , quảng trường thời đại ,.. Về kinh tế : New York là vùng trung tâm toàn cầu về thương mại và giao dịch quốc tế , cũng là một trong ba “trung tâm tập quyền kinh tế” thế giới với London và Tokyo . Thành phố là một trung tâm chính về tài chính , bảo hiểm , địa ốc và nghệ thuật tại Hoa Kỳ . Vùng đô thị New York có tổng sản phẩm vùng đô thị ước tính là 1.13 ngàn tỉ đô la mỹ trong năm 2005. KHÔNG GIAN VĂN HÓA Không gian tự nhiên City of New York là thành phố đông dân nhất tại Hoa Kỳ và trung tâm của Vùng đô thị New York, một trong những vùng đô thị đông dân nhất thế giới. Nằm trên một bến cảng thiên nhiên thuộc duyên hải Đại Tây Dương của Đông Bắc Hoa Kỳ, khoảng nửa đường từ Washington D.C đến thành phố Boston. Thành phố gồm có năm quận: The Bronx, Brooklyn, Manhattan, Queens và Đảo Staten. Dân số thành phố được ước tính vào năm 2007 khoảng trên 8.3 triệu người, với diện tích đất là 789.4 km2. The Bronx là một trong năm quận của Thành phố New York và cũng là quận mới nhất trong số 62 quận của tiểu bang New York. The Bronx nằm ở đông bắc quận Manhattan và phía nam của quận Westchester (của tiểu bang). Đây là quận duy nhất của thành phố nằm chủ yếu trên đất liền Bắc Mỹ (trong khi bốn quận kia nằm trên các hòn đảo, trừ Marble Hill, một phần nhỏ của quận Manhattan). Năm 2009, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ ước tính rằng dân số quận là 1.391.903 người vào ngày 1 tháng 7 năm 2008, với diện tích đất là 109 km2, đứng hạng thứ 4 về dân số và diện tích đất, đứng hạng ba về mật độ dân số so với năm quận của thành phố. The Bronx bị sông Brons chia cắt thành một khu vực có nhiều đồi hơn bên phía Tây, gần quận Manhanttan. Phần phía Đông của nó bằng phẳng hơn nằm gần quận Queens và quận Long Island. Phần phía Đông của nó bằng phẳng hơn nằm gần quận Queens và quận Long Island. Tây Bronx bị sát nhập vào Thành phố New York (lúc đó phần lớn thành phố chỉ có một phần đất Manhattan) vòa năm 1874, và phần phía Đông sông Bronx vào năm 1895. The Bronx đầu tiên có chính danh riêng là khi nó trở thành một quận của Thành phố Đại New York (City of Greater New York) vào năm 1898. Trong những năm vừa qua, sự pha trộn văn hóa đã làm cho The Bronx thành một nguồn của âm nhạc Latin và Hip hop. Mahattan, có khi Việt Nam hóa thành Mã Nhật Tân là 1 trong 5 quận của thành phố New York, chủ yếu nằm trên phần cửa sông Hudson. Có đường ranh giới trùng với khu Mahattan là nơi có mật độ dân số cao nhất Hoa Kỳ với 1.620.867 dân số trong 59.47 km2 tức là 27.255 người/km2 (số liệu năm 2007). Mahattan có số dân đông thứ 3 trong 5 khu của New York, nhưng diện tích lại nhỏ nhất. Bao gồm đảo Mahattan và một vài đảo nhỏ: đảo Roosevelt, đảo Randall’s, Ward’s, đảo Governors, đảo Liberty, một phần của đảo Ellis, và đảo U Thant; ngoài ra còn bao gồm Marble Hill, một phần nhỏ của Bronx. Mahattan là khu vực giàu có nhất của Hoa Kỳ, năm 2005 thu nhập bình quân đầu người tại Mahattan là hơn 100.000 USD. Nơi đây là trung tâm thương mại, tài chính, văn hóa của Hoa Kỳ và cả thế giới. Hầu hết các đài phát thanh, truyền hình, viễn thông và các công ty lớn ở Hoa Kỳ đặt trụ sở chính, cũng như nhiều báo, tạp chí, nhà xuất bản và các phương tiện truyền thông khác. Ngoài ra là nơi đặt trụ sở đầu não của Liên Hợp Quốc. Mahattan có các trung tâm thương mại lớn nhất ở Hoa Kỳ, là nơi đặt trụ sở của cả 2 sàn giao dịch New York Stock Exchange và NASDAQ. Brooklyn (đặt theo tên thị trấn Breukelen của Hà Lan) là một trong năm quận của thành phố New York. Quận này nằm ở tây nam quận Queens, trên mũi phía tây của Long Island. Đây là một thành phố độc lập cho đến khi nó được kết hợp vào thành phố New York năm 1898. Brooklyn là một quận đông dân nhất của thành phố New York với 2.5 triệu người, và là quận lớn thứ nhì về diện tích đất. từ năm 1986, Brooklyn có cùng địa giới với quận King (quận tiểu bang), một quận đô dân nhất của tiểu bang New York và là quận có mật độ dân số đông thứ hai tại Hoa Kỳ, sau quận New York (là quận Mahattan của thành phố New York). Mặc dù là một phần của thành phố New York, Brooklyn có một nền văn hóa riêng biệt, nghệ thuật độc lập và di sản kiến trúc độc đáo. Nhiều khu dân cư của Brooklyn là những khu vực sắc tộc biệt lập. Queens là quận lớn nhất tính theo diện tích, hạng nhì tính theo dân số, và nằm xa về phía đông nhất trong năm quận mà hình thành Thành phố New York. Các ranh giới của quận nằm tương đương với ranh giới của quận Queens (quận tiểu bang), một đơn vị hành chánh của tiểu bang New York. Nằm trên phần phía tây của Long Island, Queens là nơi có đến hai trong số ba phi trường lớn của Vùng đô thị New York (Phi trường Quốc tế John F.Kennedy và phi trường LaGuardia). Nó cũng là nơi có đội bóng chày New York Mets; nơi tranh giải quần vợt Mỹ Mở rộng; có công viên Flushing Meadows – Corona; Kaufman Astoria Studios; và Silvercup Studios. Đảo Staten là một quận của thành phố New York nằm trong phần phía tây nam của thành phố. Ngăn cách Đảo Staten với tiểu bang New Jersey là hai eo biển Arthu Kill và Kill Van Kull; về hướng đông thì Vịnh New York ngăn cách đảo với phần còn lại của New York. Với dân số 487.407 người, đảo Staten là quận ít người nhất trong số năm quận nhưng là quận lớn thứ ba tính theo diện tích (153 km2). Quận Đảo Staten cùng có chung địa giới với Quận Richmond, quận cực nam của tiểu bang New York. Trước năm 1975, quận này có tên chính thức là Quận Richmond. Đảo Staten đôi khi đôi khi được cư dân gọi là “quận bị lãng quên” vì họ có cảm giác rằng chính quyền Thành phố New York đã thờ ơ với quận này. Đảo Staten về tổng quan là quận ngoại thành nhất trong năm quận của Thành phố New York. Bờ biển phía Bắc, đặc biệt là các khu dân cư St.George, Tompkinsville, Park Hill, và Stapleton, là khu vực đô thị lớn nhất của đảo. Ở đây có nhiều nhà cửa lớn cất theo kiến trúc thời Victiria. Bờ biển phía Nam có các dân cư có vẻ ngoại ô hơn và là nơi có con đường lát gỗ dài thứ tư trên thế giới. Trong lịch sử các khu vực miền trung và miền nam của đảo là nơi chuyên nuôi gia cầm và bò cung cấp sữa cho thành phố. Tuy nhiên nền nông nghiệp ở đây đã dần biến mất trong thế kỷ 20. Quận được nối với Brooklyn bằng cầu Verazano- Narows còn ba cây cầu Goethals, Outerbridge Crosing và Bayonne nối đảo với thị trấn bên New Jersey. Giao thông công cộng trên đảo Staten có xe buýt và một tuyến đường sắt tốc hành của Cơ quan Giao thông Vùng đô thị New York, Đường sắt Đảo Staten khởi hành từ bến phà ở Đường George đến Tottenville. Phà Staten nối liền đảo với Manhattan, ngoài chức năng phương tiện giao thông còn là điểm thu hút du khách vì tuyến phà băng qua vịnh cho khách nhìn thấy quang cảnh của Tượng nữ thần tự do, Đảo Elles và mũi cực nam của Manhattan chi chít những cao ốc chọc trời. Địa hình Sông Hudson là một con sông quan trọng trong địa hình thành phố. Vị trí nơi cửa sông có bến cảng tự nhiên kín và bên cạnh Đại Tây Dương đã giúp cho New York phát triển nổi bật trong vai trò một thành phố thương mại. Phần lớn thành phố được xây dựng trên ba đảo là Manhattan, Đảo Staten, và Long Island, khiến cho đất đai khan hiếm và tạo ra mật độ dân số cao. Sông Hudson chảy qua thung lũng Hudson rồi đổ vào vịnh New York. Giữa Thành phố New York và thành phố Troy, con sông trở thành một cửa sông. Sông Hudson tách thành phố ra khỏi tiểu bang New Yersey. Sông East là một eo thủy triều, chảy từ vịnh Long Island, tách the Bronx và Manhattan khỏi Long Island. Sông Harlem, một eo biển thủy triều giữa sông East và sông Hudson, tách Manhattan khỏi the Bronx. Như vậy địa hình thành phố bị chia cắt bởi ba con sông chính. Đất đai của thành phố đã bị con người biến đổi khá nhiều, nhất là những phần đất lấn sông nằm dọc theo những bến sông mặt tiền kể từ thời còn là thuộc địa của Hà Lan. Việc lấn sông đáng kể nhấtở Hạ Manhattan  tạo ra các khu phát triển mới như khu dân cư Battery Park City trong thập niên 1970 và thập niên 1980. Một vài những biến đổi tự nhiên về địa hình cũng diễn ra, đặc biệt ở Manhattan. Điểm cao nhất của thành phố là đồi Totd trên Đảo Staten cao 409,8 ft (124,9 mét) so với mặt nước biển. Đây cũng là điểm cao nhất ở vùng biển phía Đông Hoa Kỳ tính từ tiểu bang Maine. Đỉnh của khu vực này phần lớn được bao phủ bởi rừng cây thưa thớt thuộc vành đai xanh đảo Staten. Khí hậu Theo phân loại khí hậu Koppen, New York có có khí hậu bán nhiệt đới ẩm, trung bình có 234 ngày nắng trong năm. Đây là thành phố chính vùng cực Bắc tại Bắc Mỹ có khí hậu bán nhiệt đới ẩm. Mùa hè ở New York có đặc điểm là nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình từ 26 – 29 °C (79 đến 84 °F) và thấp trung bình từ 17 – 21 °C (63 đến 69 °F). Tuy nhiên trung bình cũng có đến từ 16 đến 19 ngày nhiệt độ vượt trên 32 °C (90 °F) trong mỗi mùa hè và có thể vượt trên 38 °C (100 °F) cứ mỗi 4 đến 6 năm. Vào mùa đông thời tiết lạnh và có gió thổi từ ngoài biển vào có lúc làm giảm ảnh hưởng không khí lạnh tới khu vực giúp cho thành phố ấm hơn các thành phố có cùng vĩ tuyến như Chicago, Cincinati và Pittsburgh. Nhiệt độ trung bình trong tháng 1, tháng lạnh nhất thành phố là, là 0 °C (32 °F). Tuy nhiên cũng có ít ngày, nhiệt độ mùa đông xuống hàng -12 đến hàng -6 °C (10 đến 20 °F) và cũng có ít ngày nhiệt độ lên cao từ 10 đến 15 °C (50 đến 60 °F). Mùa xuân và mùa thu nhiệt độ khá thất thường, có thể lạnh cóng hoặc ấm nhưng thường dễ chịu với độ ẩm thấp. New York có lượng mưa hàng năm khoảng 1.260 mm, trải khá đều suốt năm. Tuyết rơi vào mùa đông trung bình khoảng 62 cm, nhưng thường khá biến đổi từ năm này sang năm khác và tuyết phủ mặt đất thường rất ngắn. Tuy hiếm gặp, nhưng đôi khi vùng New York cũng phải hứng chịu những cơn bão. Môi trường Thành phố New York có khối lượng vận tải quá cảnh đứng đầu Hoa Kỳ. Vào thập niên 1920 tiêu thụ xăng dầu của thành phố ngang với tỉ lệ trung bình của quốc gia. Trong thời gian gần đây,việc sử dụng các phương tiện vận tải công cộng mức độ cao đã tiết kiệm cho thành phố khoảng 1,8 tỉ gallong xăng dầu vào năm 2006, tiết kiệm được khoảng nửa số xăng dầu toàn quốc dùng cho việc chuyên chở.  Do mật độ dân số cao và lượng xe ô tô sử dụng thấp, chủ yếu sử dụng vận tải công cộng, nên New York trở thành một trong những thành phố sử dụng hiệu quả năng lượng nhất tại Hoa Kỳ. Khí thải nhà kính của Thành phố New York khoảng 7,1 tấn mỗi đầu người, so với trung bình quốc gia là 24,5 tấn/năm. Người New York nói chung chỉ chịu trách nhiệm khoảng 1% khí thải nhà kính của quốc gia mặc dù chiếm tỉ lệ 2,7% dân số toàn quốc. Trung bình, một người dân New York tiêu thụ điện năng không bằng một nửa so với một người San Francisco và chỉ bằng gần 1/4 lượng điện năng mà một cư dân ở thành phố Dallas sử dụng. Trong những năm gần đây, thành phố tập trung về việc giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường. Số lượng lớn chất ô nhiễm tích tụ tại thành phố đã dẫn đến bệnh hen suyễn và những triệu chứng hô hấp khác trong số cư dân ở thành phố. Chính quyền thành phố bắt buộc phải mua các trang thiết bị có hiệu quả năng lượng nhất để sử dụng trong các văn phòng và nhà cửa công cộng của thành phố. New York có đội xe buýt chạy bằng khí thiên nhiên và loại chạy bằng sự kết hợp giữa dầu diesel với điện lớn nhất trên toàn quốc. Ở đây cũng có một số xe taxi đầu tiên sử dụng công nghệ hybrid. Chính quyền thành phố là một thỉnh nguyện viên trong vụ kiện bước ngoặc được Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ thụ ly tên Massachusetts đối đầu Cục Bảo vệ môi trường để yêu cầu họ xếp các loại khí nhà kính vào loại những chất ô nhiễm. Thành phố cũng đi đầu trong việc xây dựng các tòa nhà văn phòng xanh trong đó có tháp Hearst. Thành phố New York được cung cấp nước uống qua hồ chứa nước của dãy núi Caskill được bảo vệ an ninh. Vì hồ nước tinh khiết và quá trình nước được lọc một cách tự nhiên nên New York là một trong số bốn thành phố chính duy nhất của Hoa Kỳ có nước uống đủ tinh khiết mà không cần phải sử dụng các nhà máy xử lý nước để lọc nước. Không gian kĩ thuật Giao thông Không như mọi thành phố lớn khác của Hoa Kỳ, chuyên chở công cộng là kiểu chuyên chở phổ biến nhất của New York. Khoảng 56,4% người dân New York ra vào thành phố làm việc trong năm 2005 sử dụng giao thong công cộng. Khoảng 1/3 số người sử dụng giao thong công cộng tại Hoa Kỳ và 2/3 số người sử dụng giao thông đường sắt trên toàn quốc trong vùng đô thị thành phố New York. Điều này trái ngược với phần còn lại của quốc gia, nơi có khoảng 90% người ra vào thành phố bằng xe hơi. New York là thành phố duy nhất tại Hoa Kì có hơn phân nửa hộ gia đình không có xe hơi. Tại Manhattan, hơn 75% dân cư không có xe hơi trong khi tỉ lệ của toàn quốc là 8%. Theo cục điều tra dân số Hoa Kì, cư dân New York bỏ ra bình quân 38,4 phút mỗi ngày để đi đến nơi làm việc- thời gian đến nơi làm việc dài nhất trong số những thành phố lớn trên toàn quốc. Hệ thống xe lửa Amtrak phục vụ thành phố New York tại Ga Pennsylvania. Amtrak phục vụ nối đến các thành phố Boston, Philadelphia và Washington, D.C dọc theo tuyến hành lang Đông Bắc cũng như phục vụ tuyến đường dài đến các thành phố như Chicago,New Orleans,Miami, Toronto và Montreal. Ga xe bus cơ quan quả
Luận văn liên quan