V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ ai hay tổ chức nào. Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện lần lượt bốn hình thái kinh tế - xã hội đó là : Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, nhân loại đang trong quá trình tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản – hình thái kinh tế xã hội tiên tiến nhất của loài người. Trong quá trình phát triển giữa các hình thái kinh tế xã hội mà đặc biệt là giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản thì theo lý luận chủ nghĩa Mác đã chỉ ra giai đoạn quá độ giữa hai hình thái. V.I.Lênin trong quá trình hoạt động cách mạng của mình đã tích cực bảo vệ quan điểm này của chủ nghĩa Mác đồng thời phát triển học thuyết đó vào thực tiễn phong trào cách mạng nước Nga đầu thế kỷ XX. Trong đó học thuyết về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mang một ý nghĩa to lớn, chứng minh lịch sử tất yếu của sự phát triển hình thái kinh tế xã hội CSCN sẽ phải trải qua giai đoạn thấp (giai đoạn CNXH) và để tiến lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ. Nhờ lý luận về hình thái kinh tế cộng sản và thời kỳ quá độ mà nước nga Xô Viết lúc bấy giờ đã xây dựng thành công CNXH và là bài học to lớn cho các nước CNXH áp dụng mô hình đó. Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gay gắt, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực tư tưởng, đặc biệt là sau sự sụp đổ của các nước CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng xuyên tạc làm méo mó chủ nghĩa Mác-Lênin và sâu xa hơn là muốn phá bỏ hệ tư tưởng của GCCN nói chug và học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi phải tập trung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở đó làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hôi CSCN đặc biệt là thời kỳ quá độ của nó, vận dụng lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam.

docx51 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11369 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT CMXHCN CNCS CNTB CNXH CNH-HĐH CSCN GCCN GCTS GCVS HTKH-XH LLSX NSLĐ PTSX QHSX XHCN Cách mạng xã hội chủ nghĩa Chủ nghĩa cộng sản Chủ nghĩa tư bản Chủ nghĩa xã hội Công nghiệp hóa-hiện đại hóa Cộng sản chủ nghĩa Giai cấp công nhân Giai cấp tư sản Giai cấp vô sản Hình thái kinh tế-xã hội Lực lượng sản xuất Năng suất lao động Phương thức sản xuất Quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ ai hay tổ chức nào. Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện lần lượt bốn hình thái kinh tế - xã hội đó là : Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, nhân loại đang trong quá trình tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản – hình thái kinh tế xã hội tiên tiến nhất của loài người. Trong quá trình phát triển giữa các hình thái kinh tế xã hội mà đặc biệt là giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản thì theo lý luận chủ nghĩa Mác đã chỉ ra giai đoạn quá độ giữa hai hình thái. V.I.Lênin trong quá trình hoạt động cách mạng của mình đã tích cực bảo vệ quan điểm này của chủ nghĩa Mác đồng thời phát triển học thuyết đó vào thực tiễn phong trào cách mạng nước Nga đầu thế kỷ XX. Trong đó học thuyết về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mang một ý nghĩa to lớn, chứng minh lịch sử tất yếu của sự phát triển hình thái kinh tế xã hội CSCN sẽ phải trải qua giai đoạn thấp (giai đoạn CNXH) và để tiến lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ. Nhờ lý luận về hình thái kinh tế cộng sản và thời kỳ quá độ mà nước nga Xô Viết lúc bấy giờ đã xây dựng thành công CNXH và là bài học to lớn cho các nước CNXH áp dụng mô hình đó. Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gay gắt, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực tư tưởng, đặc biệt là sau sự sụp đổ của các nước CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng xuyên tạc làm méo mó chủ nghĩa Mác-Lênin và sâu xa hơn là muốn phá bỏ hệ tư tưởng của GCCN nói chug và học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi phải tập trung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở đó làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hôi CSCN đặc biệt là thời kỳ quá độ của nó, vận dụng lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam. Là sinh viên chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học, việc nghiên cứu vấn đề này là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thục tiễn to lớn, vì vậy tôi đã chọn đề tài “V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (qua nghiên cứu ba tác phẩm: Nhà nước và cách mạng, kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản và tác phẩm bàn về thuế lương thực)” làm đề tài nghiên cứu cũng như hoàn thành điều kiện để kết thục học phần. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH không phải là vấn đề mới nhưng luôn mang tính thời sự và mang ý nghĩa quan trọng, và vì vậy nó luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, không chỉ những nhà khoa học chuyên ngành mà bao gồm cả những tri thức quan tâm đến nó, chúng ta phải khẳng định rằng có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài về vấn đề này, vì nghiên cứu vấn đề này không chỉ là bảo vệ phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn tạo cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng CNXH ở tất cả các nước trong thời đại ngày nay. Trong đó có thể kể một số công trình tiêu biểu sau: - Quan điểm kinh tế và chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong một số tác phẩm kinh điển Mác-Lênin, TS.Phạm Ngọc Dũng, nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội – 2011. - Quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng nội hàm và nhiệm vụ cơ bản trong thời kỳ quá độ, Trương Khởi Hoa, Nhà xuất bản chính trị quốc qia, Hà Nội-2000. - Hồ Chí Minh Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội-2004. Cùng với một số bài giảng của thầy cô trên lớp, qua nghiên cứu, trao đổi, seminar…đặc biệt qua một số đề cương bài giảng của khoa như: - Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công Tuấn (chủ biên), khoa CNXHKH - Học viện báo chí và tuyên truyền, Nhà xuất bản chính trị - hành chính, Hà Nội-2012. - Tác phẩm VI.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công Tuấn, Khoa CNXHKH, học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội 1/2013. - Đề cương bài giảng: Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và Ph.Ăngghen về CNXHKH, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, TS Nguyễn Thọ Khang, Khoa CNXHKH, Học viện báo chí và tuyên truyền. - Đề cương học phần lý luận hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa, TS.Nguyễn Thọ Khang-TS Bùi Kim Hậu, khoa CNXHKH, Học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội 10/2012. Cùng nhiều tài liệu quan trọng khác, đã giúp tôi nắm được những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CNXH và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cũng như sự bảo vệ và phát triển của VI.I.Lênin, để tôi có thể hoàn thiện bài tiểu luận. 3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu Để hoàn thành Tiểu luận tôi đã đọc và nghiên cứu các tác phẩm chính của V.I.Lênin sau: “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” và “Bàn về thuế lương thực”, vì đây là những tác phẩm quan trọng của V.I.Lênin nói về chủ nghĩa xã hội khoa học và đặc biệt trong đó Người đặc biệt chú ý đến vấn đề lý luận phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Ngoài ra tôi còn tham khảo các tác phẩm khác như: “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”, “Sáng kiến vĩ đại”, “Bàn về chế độ hợp tác xã”… và các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen như “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, “Phê phán cương lĩnh Gôta”… Một số khái niệm, định nghĩa, phạm trù liên quan đến tiểu luận: - Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ hình thức và trạng thái tồn tại chung nhất và tất yếu của mọi xã hội ở mọi giai đoạn phát triển của nó với những quan hệ sản xuất (có vai trò là cơ sở hạ tầng của xã hội) phù hợp với trình độ của LLSX ở từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định và với những quan niệm, thiết chế xã hội tương ứng (có vai trò là kiến trúc thượng tầng) được hình thành trên cơ sở những kiểu quan hệ sản xuất ấy và tác động lại chúng. - Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của xã hôi trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. - Kiến trúc thượng tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế xã hội tương ứng của chúng là nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể xã hội…những cái được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của những cơ sở hạ tầng nhất định của xã hội. - Hình thái kinh tế - xã hội CSCN là khái niệm để chỉ một loại hình, một trạng thái tồn tại của cộng đồng người với cơ sở hạ tầng mà đặc trưng của nó là quan hệ sản xuất CSCN ngày càng trở thành quan hệ sản xuất thống trị, phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại và một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng mà đặc trưng của nó là, hệ thống thiết chế, tổ chức, ý thức, quan điểm, đạo đức…của GCCN ngày càng giữ vai trò thống trị và do đó là một kiểu xã hội không còn tình trạng người áp bức bóc lột người, con người được phát triển ngày càng toàn diện, có cuộc sống ngày càng hạnh phúc. - Cơ sở hạ tầng của HTKT-XH CSCN (hoặc cơ sở hạ tầng CSCN) là khái niệm chỉ toàn bộ các quan hệ sở hữu, quản lý, phân phối của con người trên cở sở của chế độ sở hữu của xã hội về tư liệu sản xuất và phù hợp với trình độ hiện đại và tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. - Kiến trúc thượng tầng của HTKT-XH CSCN (hoặc kiến trúc thượng tầng CSCN) là khái niệm dùng để chỉ một hệ thống thiết chế, tổ chức, ý thức, quan điểm đọa đức, khoa học, văn học nghệ thuật…mang bản chất GCCN được hình thành trên cơ sở cơ sở hạ tầng CSCN. - Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, bắt đầu từ khi GCCN và nhân dân lao động tiến hành cuộc CMXHCN giành được chính quyền nhà nước cho đến khi CNXH được phát triển trên những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của chính nó 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là: Làm rõ công lao, đóng góp, sự bảo vệ và phát triển của V.I.Lênin về luận điểm chủ nghĩa xã hội khoa học và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu tôi cho rằng cần phải thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây: - Những vấn đề lý luận cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Về những bối cảnh, quan điểm, vai trò của những nhà kinh điển Mác-Lênin trong việc hình thành, phát triển lý luận CNXH và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. - Những luận điểm của V.I.Lênin trong việc khẳng định sự đúng đắn của lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ của chủ nghĩa Mác, từ đó phê phán những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa cơ hội, xét lại và từ đó phát triển cụ thể hơn lý luận đó vào thực tiễn thời kỳ mới. - Sự vận dụng của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, trong qua trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. 5. Đóng góp tiểu luận Với một sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tiểu luận này đã giúp bản thân tôi hiểu và thấm nhuần hơn những tư tưởng, quan điểm về CNXH và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, của học thuyết Mác - Lênin, thấy rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề này đối với con đường tiến lên CNXH ở nước ta hiện nay. Góp một phần trong việc bảo vệ, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về CNXH và thời kỳ quá độ trong giai đoạn hiện nay. 6. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của đề tài chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp chủ đạo: Phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp một cách đúng mức với phương pháp lôgích- lịch sử. Phương pháp cụ thể bao gồm những phương pháp sau: Lược thuật tài liệu, tổng thuật tài liệu. 7. Kết cấu tiểu luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, Tiểu Luận có kết cấu gồm 3 chương 7 tiết. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN 1.1 C.Mác - Ănghghen xây dựng và phát triển về lý luận Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội 1.1.2 Bối cảnh lịch sử châu Âu những năm giữa của thế kỷ XIX - Tình hình kinh tế xã hội Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX QHSX TBCN đã được xác lập, CNTB đã đạt được những bước tiến khổng lồ về phương diện kinh tế. chỉ trong vòng chưa đầy 100 năm, CNTB đã tạo được một sự phát triển mạnh trong kinh tế, so với thời đại trước đó, CNTB thật sự là một bước tiến trên lĩnh vực phát triển công cụ lao động, hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại của một nền công nghiệp lớn, phát triển nhanh, lực lượng lao động xã hội được phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tóm lại, tới thời kỳ này toàn bộ những thành tựu cơ bản của LLSX đã phát triển với những trình độ kỹ thuật – công nghệ hiện đại với tính chất xã hội hóa ngày càng cao, sự phát triển ấy làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập của PTSX tư bản: mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất là chiếm hữu tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu với tính chất và trình độ của LLSX. Tới những năm 70 của thế kỷ XIX, nền kinh tế TBCN tiếp tục phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao, nó đã chuyển lên trình độ mới cao hơn thời kỳ trước về các mặt: cường độ lao động, năng suất lao động…nhưng sự phát triển này lại tạo ra điều kiện làm việc của công nhân hết sức tồi tệ, người lao động nông thôn bị tước đoạt hết ruộng đất, tạo nên mâu thuẫn giữa công nhân với giai cấp thống trị là giai cấp tư sản, giữa nông thôn và thành thị…từ những mâu thuẫn về mặt kinh tế biểu hiện mặt chính trị xã hội sâu sắc. -Về mặt chính trị - xã hội Lúc này giai cấp tư sản đã thiết lập được vị trí thống trị của mình trên lĩnh vực chính trị xã hội. trong khi đó đại bộ phận nhân dân thuộc các tầng lớp sở hữu nhỏ đều bị phá sản…lúc này mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản trở nên gay gắt, vào thời điểm này nhiều đại biểu tư tưởng của GCCN đã bước vào hoạt động chính trị đấu tranh vì lợi ích GCCN, tiêu biểu là C.Mác và Ph.Ăngghen, đòi hỏi các vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ và lên cao ở khắp châu Âu, tiêu biểu có cao trào cách mạng Pháp 1848-1850, ở Đức và Anh là những nơi cách mạng diễn ra sôi động nhất, đến giữa những năm 70 một sự kiện làm rung động xã hội bấy giờ đó là sự kiện công xã Pari, hình thức nhà nước vô sản đầu tiên ra đời, mặc dù tồn tại trong thời gian ngắn nhưng có tác động rất lớn đến phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Một yêu cầu đặt ra là phải giải phóng GCCN và nhân dân lao động ra khỏi áp bức, bóc lột và thoát khỏi những mâu thuẫn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Nhận thức được vấn đề này, cùng với nhãn quan cách mạng và sự nghiên cứu, tìm tòi thực tiễn cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết về hình thái kinh tế xã hội CSCN, và kết luận hình thái kinh tế xã hội này sẽ thay thế hình thái kinh tế xã hội TBCN đương thời, để làm được điều đó các ông đã đặt nền móng lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, và cho rằng để tiến lên CSCN tất yếu phải trải qua 2 giai đoạn này. 1.1.2 Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, bằng sự phân tích một cách khoa học các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TBCN đương thời, các ông đã chỉ ra rằng, chính điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của xã hội TBCN đã quy định một cách tất yếu rằng GCCN là lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử: thủ tiêu chế độ TBCN, xây dựng chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nhưng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là xây dựng thành công CNCS trên phạm vi toàn thế giới, trước hết giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, bước sau đó là dùng quyền thống trị, bước sau đó là dùng quyền thống trị về chính trị để cải tạo xã hội cũ - xã hội TBCN và xây dụng xã hội mới XHCN (giai đoạn thấp của hình thái kinh tế-xã hội CSCN), quá trình cải tạo xã hội cũ được từng bước hình thành trên những tiền đề về quan hệ sản xuất mới. Đó chính là thời kỳ quá độ, vậy thời kỳ quá độ bắt đầu khi nào, kết thúc khi nào, và ở vị trí nào trong HTKT CSCN?. Thời kỳ quá độ bắt đầu khi GCCN giành được chính quyền và sử dụng chính quyền ấy trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, và kết thúc thời kỳ quá độ khi những tiền đề của CNXH ra đời, chấm dứt sự tồn tại của CNTB. Khi phân tích về HTKT CSCN, theo các ông, HTKT CSCN phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn XHCN lên giai đoạn CSCN. Trong CNXH, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa đạt trình độ “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, còn trong giai đoạn cao - CNCS con người không còn lệ thuộc một cách thụ động, cứng nhắc vào sự phân công lao động, sự phát triển mạnh mẽ của LLSX tạo ra một năng xuất lao động ngày càng cao, nguồn của cải tuôn da dồi dào, sự bất bình đẳng xã hội, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao đông chân tay không còn, xã hội thực hiện theo nguyên tắc: “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Nhưng để tiến lến xã hội đó giữa xã hội TBCN và xã hội XHCN cần một thời kỳ quá độ từ xã hội nọ sang xã hội kia, xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội mà mọi phương diện kinh tế, xã hội, đạo đức, tinh thần…còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra, đó là xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó, cho nên nó nằm trong thời kỳ đầu trong giai đoạn CSCN Mác và Ăngghen không chỉ nói tính tất yếu của sự xuất hiện và phát triển CNXH ở các nước TBCN tiên tiến ở châu Âu - nơi đã có đại công nghiệp phát triển cao và đã sản sing ra giai cấp vô sản hùng mạnh mà các ông còn bàn tới khả năng tiến lên CNXH ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, hoặc mới chỉ bắt đầu hình thành các quan hệ TBCN hoặc còn tồn tại các kết cấu kinh tế - xã hội kiêu công xã nông thôn ở phương đông, đặc biệt là nước Nga Trong lời tựa xuất bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, bản tiếng nga - đây là lời tựa lần cuối cùng của Mác viết, cả Mác và Ănghen đều tiếp tục nhấn mạnh rằng: “Bây giờ thử hỏi công xã nông thôn nga, cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, chủ nghĩa cộng sản về sở hữu ruộng đất không, hay là trước hết, nó cũng trải qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử ở phương Tây? Ngày nay lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng Nga là tín hiệu của cuộc cách mạng vô sản ở phương tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất ở Nga hiện nay có thể là điểm xuất phát của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(ma.t19,tr434). Vậy là ở C.Mác và Ph.Ăngghen đã hình thành khá rõ tư tưởng về sự phát triển không qua CNTB ở nước Nga. Ph.Ăngghen dự báo con đường phát triển XHCN đặc thù Nga đã đi đến tính phổ biến lựa chọn CNXH đối với tất cả các nước đang ở trình độ phát triển tiền TBCN. ở đây có lẽ đây là lần đầu tiên, Ăngghen đưa ra khái niệm về con đường rút ngắn mà ở trước đó. Mác mới chỉ nói tới “không qua chủ nghĩa tư bản” bằng cách nói gián tiếp (chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa..) mà thôi. Ăngghen viết: nhưng một điều kiện tất yếu để làm được việc đó là tấm gương và sự ủng hộ tích cực của phương Tây cho tới nay vẫn còn là TBCN. Chỉ khi nào nền kinh tế TBCN hoàn toàn bi đánh bại tại quê hương của nó và ở những nước nó đã phát đạt, chỉ khi nào những nước lạc hậu qua tấm gương ấy mà biết được rằng “ việc đó đã tiến hành như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội - thì những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như vậy. như vậy thắng lợi ở các nước ấy sẽ được đảm bảo. Và điều đó không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa” [3,Tr.632] Như vậy ngoài việc nêu lên con đường lịch sử - tuần tự qua tất cả các hình thái trong sự phát triển của xã hội, Mác và Ăngghen còn dự đoán con đường phát triển bỏ qua giai đoạn TBCN ở các nước tiền TBCN để tiến lên CNXH. 1.2 Những vấn đề đặt ra đối với việc bảo vệ, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội 1.2.1 Bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 1.2.1.1 Tình hình thế giới Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB bước vào giai đoạn cuối cùng của nó – chủ nghĩa Đế quốc, giai đoạn này được V.I.Lênin gọi là đêm trước của cách mạng vô sản, quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền, đây là đặc điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của LLSX và hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng gay gắt, vì vậy chu kỳ khủng hoảng kinh tế ngày càng ngắn lại và tính chất ngày càng trầm trọng hơn. Thế giới tư bản đã bước vào ngưỡng cửa của tổng khủng hoảng, đi liền với khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng xã hội: nạn thất nghiệp, sự bất công, bất bình đẳng xã hội ngày càng diễn ra trầm trọng, sự áp bức của nhà nước với nhân dân ngày càng tàn khốc, làm cho đời sống nhân dân khốn khổ và đẩy mâu thuẫn lên đỉnh điểm. Không thỏa mãn với sự thống trị trong nước, tư bản tài chính còn tham vọng xâm chiếm, thống trị các dân tộc, các quốc gia khác, biểu hiện đầu tiên dướ