Xuất khẩu lao động – Giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập KTQT trong xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện nhất định cho Việt Nam phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của phân công và hiệp tác lao động quốc tế làm cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam ngày càng khởi sắc. XKLĐ cho phép Việt Nam phát huy được lợi thế của mình về nhân lực, XKLĐ đem lại cho Việt Nam rất nhiều lợi ích: giảm thất nghiệp, tăng thu ngân sách, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước. Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động XKLĐ nên em đã chọn đề tài: “ XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT” để làm đề án môn học.

doc45 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2737 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xuất khẩu lao động – Giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT. LLLĐ : Lực lượng lao động. XKLĐ: Xuất khẩu lao động. KTQT: Kinh tế quốc tế. LỜI MỞ ĐẦU. Tính cấp thiết của đề tài. Hội nhập KTQT trong xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện nhất định cho Việt Nam phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của phân công và hiệp tác lao động quốc tế làm cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam ngày càng khởi sắc. XKLĐ cho phép Việt Nam phát huy được lợi thế của mình về nhân lực, XKLĐ đem lại cho Việt Nam rất nhiều lợi ích: giảm thất nghiệp, tăng thu ngân sách, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước. Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động XKLĐ nên em đã chọn đề tài: “ XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT” để làm đề án môn học. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu đề tài này nhằm vận dụng lý thuyết vào thực tế để luận giải nhũng nhân tố ảnh hưởng đến XKLĐ, vai trò của XKLĐ trong công tác tạo việc làm, đánh giá tình hình thực hiện XKLĐ, những tồn tại , nguyên nhân và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động XKLĐ trong điều kiện hội nhập KTQT.ư Nhiệm vụ: đưa ra cơ sở lý luận của hoạt động XKLĐ – giải pháp tạo việc làm trong quá trình hội nhập KTQT, phân tích tình hình thực hiện và đưa ra các giải pháp. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động XKLĐ của Việt Nam trong điều kiện hội nhập, cụ thể ở đây là hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Phạm vi nghiên cứu: hoạt động XKLĐ – đưa lao động đi làm việc ở một số nước giai đoạn 2000 – 2004. Tên đề tài và kết cấu của đề án. Tên đề tài: “ XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT”. Tên các phần: Phần I: cơ sở khoa học về XKLĐ – giải pháp tạo việc làm trong tiến trình hội nhập KTQT . Phần II: Thực trạng của công tác XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động. Phần III: phương hướng, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác XKLĐ – giải pháp tạo việc làm trong tiến trình hội nhập KTQT. PHẦN I: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KTQT. I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM. Việc làm – thất nhiệp. Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp tạo việc làm khá phổ biến đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Trước khi đi vào tìm hiểu về xuất khẩu lao động ta cần hiểu một số khái niệm liên quan như việc làm, thất nghiệp, tạo việc làm,... Việc làm. Theo nghĩa chung nhất thì việc làm được hiểu là phạm trù chỉ trạng thái phù hợp giữa số lượng lao động và điều kiện cần thiết ( vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,...) để sử dụng sức lao động đó. Trong đó: Việc làm đầy đủ: tức là sử dụng hết thời gian làm việc, mọi người có khả năng và có nhu cầu thì đều có việc làm. Việc làm hợp lý: là sự kết hợp giữa nguyên vật liệu, tư liệu sản xuất, ... và sức lao động và dựa trên tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động. Theo Điều 13, Chương II, Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam ghi rõ “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm. Theo ILO – Tổ chức lao động quốc tế “ việc làm là hoạt động lao động được trả công bằng tiền và hiện vật. Người có việc làm là những người làm việc trong những khoảng thời gian xác định cuộc điều tra kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc đang tạm thời nghỉ việc do tai nạn, bệnh tật, nghỉ lễ,... Người thiếu việc làm: là những người trong khoảng thời gian xác định điều tra có tổng số giờ lao động nhỏ hơn thời gian quy định trong tháng, năm,... Thất nghiệp. Theo đúng nghĩa của từ thì thất nghiệp là mất việc làm hay sự tách rời sức lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp: Theo ILO - tổ chức lao động quốc tế, thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm nhưng không tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành. Ở Việt Nam, người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên có nhu cầu làm việc nhưng không có việc làm trong tuần lễ điều tra hoặc tính đến thời điểm điều tra có đi tìm việc làm trong 4 tuần lễ vừa qua hoặc không đi tìm việc làm trong 4 tuần lễ với lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở đâu hoặc trong tuần lễ điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8h/ ngày, muốn làm thêm nhưng không có việc. 2. Tạo việc làm. Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội để kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất. Vấn đề tạo việc làm luôn được các nước quan tâm, đặc biệt đối với Việt Nam là nước có tốc độ gia tăng dân số, nguồn lao động khá cao trong khi tốc độ phát triển kinh tế còn chưa cao do hạn chế về vốn, tư liệu sản xuất còn dưới mức của nhu cầu kết hợp với sức lao động. Do vậy mà công tác tạo việc làm là rất cần thiết để góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp; đáp ứng các nhu cầu, nghĩa vụ và quyền lợi cho người đang trong độ tuổi lao động; thu nhập của người lao động tăng lên, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao... Các hướng chủ yếu trong công tác tạo việc làm của nước ta hiện nay: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành nghề một cách phù hợp, công nghiệp hóa nông thôn, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống,.. Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội nói chung và thị trường lao động nói riêng. Vận dụng thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới tiến hành xuất khẩu lao động giải quyết việc làm cho lượng lao động ngày một tăng nhanh, tăng thu ngoại tệ cho nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động. Hoàn thiện, phát triển, tăng cường sự hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động. Động viên người lao động tự tạo việc làm trong các ngành nghề thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt khu vực phi chính thức. Kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Khái niệm. Nền kinh tế thế giới (kinh tế quốc tế ) là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và mối quan hệ qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và việc phát triển quan hệ quốc tế. Ngày nay kinh tế thế giới là một thực thể đặc thù, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau, các bộ phận cấu thành nền kinh tế tác động qua lại nhiều chiều trong sự vận động biến đổi không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Hội nhập KTQT là khái niệm mở, phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng phương hướng, kí kết, và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế chỉ sự tham gia chủ động tích cực của một quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương nhưng vẫn giữ sự kiểm soát và bản sắc riêng của nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung. 3.2. Những thuận lợi và thách thức khi hội nhập KTQT Hơn 10 năm thực hiện chính sách mở cửa, cùng với những tiềm năng và nguồn lực phát triển phong phú, Việt Nam đã có những tiền đề nhất định trong việc hội nhập vào nền kinh thế giới. Là nước có nguồn lực to lớn, giàu tài nguyên thiên nhiên cùng với nguồn nhân lực dồi dào là những điều kiện và lợi thế so sánh quan trọng để Việt Nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế. Việt Nam nằm trong khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh tế thế giới , có cơ hội để tham gia vào nền kinh tế khu vực (ASEAN, AFTA ) cũng như các tổ chức kinh tế thế giới như WTO,.. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới khẳng định Việt Nam đã có bước tiến mới trong phát triển kinh tế, nâng vị thế của mình trên trường quốc tế đồng thời quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới giúp cho nền kinh tế Việt Nam được tiếp cận với thị trường hàng hóa và dịch vụ của các nước thành viên với mức thuế thấp, có vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định các chính sách thương mại, có điều kiện học hỏi và rút kinh nghiệm từ các nước đi trước, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh với hàng hóa các nước khác, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất được mở rộng, việc làm tăng lên, thất nghiệp giảm, thu nhập của người lao động được cải thiện, chất lượng cuộc sống dần được nâng lên đáng kể,... Như vậy với một nước có nền kinh tế phát triển còn non trẻ như Việt Nam thì tiến trình hội nhập KTQT sẽ là rất cần thiết để nền kinh tế phát triển, và đặc biệt với công tác tạo việc làm thì tiến trình hội nhập có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, người lao động Việt Nam không chỉ được tiếp cận với thị trường lao động trong nước mà còn được tiếp cận với thị trường lao động của các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới và thị trường lao động quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó Việt Nam cung gặp những khó khăn nhất định trong quá trình hội nhập KTQT, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu trên thị trường thế giới; nguồn nhân lực nước ta chất lượng còn chưa cao, trình độ tay nghề thấp chủ yếu là lao động phổ thông , ít thợ lành nghề cùng với nguy cơ tụt hậu so với nền kinh tế khu vực và thế giới là rất lớn thêm vào đó là những ảnh hưởng của sự mất ổn định của môi trường kinh tế - tài chính – tiền tệ của khu vực và toàn cầu gây khó khăn cho Việt Nam trong việc lựa chọn mô hình và chính sách phát triển kinh tế. Trước những thuận lợi và khó khăn này đòi hỏi có những giải pháp cần thiết để Việt Nam phát huy những lợi thế của mình trong tiến trình hội nhập KTQT. Xuất khẩu lao động. Trước khi đi tìm hiểu về xuất khẩu lao động ta cần nắm được một số khái niệm cơ bản sau: Nhập cư chủ yếu đề cập đến người lao động ( có nghề hoặc không có nghề ) từ nước ngoài đến một nước nào đó để làm việc. Xuất cư chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động (có thể là từ quê hương hoặc từ một nước quá cảnh). Hợp tác quốc tế về lao động là thuật ngữ được sử dụng trong một số nước XHCN trong phạm vi khối SEV trước đây. Thuật ngữ này không nêu được bản chất của xuất khẩu lao động dưới hình thức không ngang giá sức lao động – một loại hàng hóa đặc biệt.(7, tr 11) Xuất khẩu lao động ( XKLĐ) là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến, có tính chất thông dụng để chỉ hoạt động chuyển dịch lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác. Nó gồm cả xuất khẩu lao động tại chỗ. Tham gia vào quá trình này gồm hai bên: bên nhập khẩu lao động và bên xuất khẩu lao động. Nghị định số 152/ 1999/ NĐ – CP ngày 20/ 9/ 1999 của Chính phủ nêu rõ: “ Xuất khẩu lao động và chuyên gia là hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động tăng nguồn thu ngoại tề cho đất nước,…cùng với giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa…”(7, tr 11,12). Lao động xuất khẩu nói về bản thân người lao động hoặc tập thể người lao động có những độ tuổi khác nhau, sức khẻo và kỹ năng lao động khác nhau. Như vậy việc di chuyển trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có thể biến dạng khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa xuất khẩu lao động vừa mang ý nghĩa di chuyển lao động. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động xuất khẩu lao động chủ yếu là nhằm mục đích đích kinh tế và nó vươn ra ngày càng nhiều thị trường lao động của các nước trên thế giới. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG – GIẢI PHAP TẠO VIỆC LÀM VÀ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KT. Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho mọi người chính là mục tiêu phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào và ở bất cứ thời kỳ nào. Cùng với quá trình hội nhập KTQT thì xu thế phân công và hiệp tác lao động quốc tế là một tất yếu khách quan, trong đó xuất khẩu lao động là một hình thức của phân công lao động quốc tế đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối lao động giữa các quốc gia trên thế giới. Do vậy để xuất khẩu lao động không chỉ mang tính chiến lược mà còn có khả năng cạnh tranh cao thì bản thân xuất khẩu lao động đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài: Trước đây khi chưa có hoạt động xuất khẩu lao động, do nhu cầu của cuộc sống muốn nâng cao thu nhập và hiện tượng thiếu lao động ở những nước phát triển có nền sản xuất lớn đã xuất hiện hiện tượng di chuyển lao động từ vùng này sang vùng khác và từ nước này sang nước khác dưới hai dạng làm việc lâu dài và làm việc tạm thời. Cả hai phía người lao động và người thuê lao động đều thu được lợi hoạt động này, người thuê lao động thuê được nhân công với giá rẻ, người lao động có việc làm và thu nhập để cải thiện đời sống. Như vậy việc di chuyển lao động ( chỉ đề cập đến di chuyển lao động ra khỏi biên giới một quốc gia) trước hết là một hiện tượng khách quan trong quy luật hoạt động của bản thân người lao động, tiếp đó là sự thúc ép về việc làm đối với nước có quá nhiều lao động và nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu lao động mang lại, và một loạt các nguyên nhân khác nữa. Khoảng 60 – 70 năm trước đây, trước thực tế của một số nước có tốc độ tăng dân số, nguồn nhân lực quá nhanh trong khi trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp, không có khả năng tạo ra việc làm đầy đủ cho người lao động. Thất nghiệp, đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn, đặt các nhà quản lý về lao động trước câu hỏi đặt ra là làm thế nào để giảm tỷ lệ thất nghiệp? Trong khi đó ở những nước có nền kinh tế phát triển, sản xuất lớn thì lại gặp phải tình trạng thiếu nhân công. Trước tình hình trên một số nước đã giải quyết tình trạng thừa lao động bằng cách khuyến khích người lao động của mình ra nước ngoài làm việc như: Philippin, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Thái Lan,… mà chưa có tiền lệ hay điều lệ nào đối với người. Đến khoảng 20 năm trở lại đây,cùng với quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế, việc đưa lao động ra nước ngoài đã được nâng lên một tầm mới cả về quy mô, hình thức và chất lượng. Đó là do nền kinh tế toàn cầu đang phát triển và chuyển biến về chất không đồng đều giữa các nước trên thế giới trên cơ sở của tiến bộ kĩ thuật và khoa học công nghệ. Nhu cầu về lao động cũng có những đặc điểm nhất định: Nhóm các nước có nền kinh tế phát triển, nền sản xuất tiên tiến có nhu cầu lao động giản đơn hoạt động trong các ngành dịch vụ, nông thôn, ngư nghiệp và một số ngành sản xuất nặng nhọc khác như: Hà Lan, Pháp, Đức, …Song các nước này cũng đưa các chuyên gia bậc cao và lao động kỹ thuật đi làm việc ở các nước đang và chậm phát triển để thu ngoại tệ. Đối với nhóm chậm và đang phát triển luồng di chuyển lao động có 2 xu hướng: Tiếp nhận lao động kỹ thuật và lao động giản đơn di chuyển từ các vùng khác nhau để khai thác tài nguyên thiên nhiên của chính nước mình để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Cung cấp lao động giản đơn cho những nước có nhu cầu về lao động để giảm sức ép về việc làm trong nước và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Ngoài ra nhu cầu trao đổi lao động cũng tùy thuộc vào từng thời kỳ. Từ thực tiễn ta thấy sức lao động của các quốc gia dư thừa lao động đã trở thành hàng hóa mang tính quốc tế mà các quốc gia đem đổi lấy ngoại tệ dưới nhiều hình thức khác nhau. Như vậy đến nay việc di chuyển lao động giữa các nước không còn là hoạt động đơn lẻ, tự phát của bản thân người lao động mà đã được thực hiện một cách có tổ chức dưới hình thức tổ chức xuất khẩu lao động của nhà nước hay tổ chức tư nhân hoạt động về xuất khẩu lao động. Ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển cùng với quá trình hội nhập khu vực hóa, toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng thì phân công và hiệp tác lao động cũng không ngừng phát triển. Đặc biệt là đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiến hành xuất khẩu lao động sang các nước giải quyết việc làm cho người lao động đồng thời tăng nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước với mục tiêu: dân giàu – nước mạnh – xã hội công bằng văn minh. III. ĐẶC ĐIỂM CỦA XKLĐ – GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KTQT. XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT. Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế của các nước chậm và đang phát triển thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những giải pháp quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động trong khi tốc độ tăng dân số và nguồn lao động còn khá cao và thu ngoại tệ dưới hình thức chuyển tiền về của người lao động và một loạt các lợi ích khác. Trước nhũng lợi ích thu được từ hoạt động xuất khẩu lao động đã đặt các nước tiến hành xuất khẩu lao động trước một thách thức là làm sao chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường lao động nước ngoài. Thị trường lao động cũng như thị trường hàng hóa hoạt động dựa trên quan hệ cung cầu về sức lao động, nó cũng chịu sự điều tiết chi phối của các quy luật kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán sao cho hoạt động xuất khẩu lao động phải bù đắp được chi phí và có lãi vì vậy cần có những biện pháp cần thiết để tăng tối đa khả năng cung ứng sức lao động, bên cầu phải tính toán kỹ lưỡng việc nhập khẩu lao động sao cho việc nhập khẩu lao động mang lại hiệu quả cao nhất và tránh lãng phí. Như vậy hoạt động xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế mang lại lợi ích cho các bên tham gia: người lao động đi xuất khẩu, nước có lao động đi xuất khẩu, nước nhập lao động xuất khẩu, và tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động. Do vậy nhà nước cần có các biện pháp để quản lý và thúc đẩy sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động để đem lại hiệu quả cao nhất. XKLĐ – giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập KTQT là hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội. Việc xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách rời người lao động. Do vậy mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp với các chính sách xã hội khác để đảm bảo cho người lao động ở nước ngoài được lao động như cam kết trong hợp đồng và đảm bảo quyền được tham gia tổ chức công đoàn, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Mặt khác thì việc đi xuất khẩu lao động mang tính thời hạn, do vậy cần phải có những chính sách thích hợp để tiếp nhận người lao động, giải quyết việc làm cho người lao động sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng để họ tiếp tục sử dụng sức lao động của mình vào quá trình sản xuất trong nước. Góp phần giảm thất nghiệp, tránh lãng phí nguồn nhân lực có tay nghề. XKLĐ là sự kết hợp hài hòa giữa sự quản lý vĩ mô của nhà và sự tự chịu trách nhiệm của tổ chức XKLĐ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Khi mà hoạt động XKLĐ đã được diễn ra một cách có tổ chức thì hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở các hiệp định được kí kết giữa các chính phủ và các hợp đồng cung ứng lao động và chuyên gia giữa nước, tổ chức nước ngoài nhập lao động và tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động – đại diện cho người lao động. Trong giai đoạn 1980 – 1990, Việt Nam XKLĐ của
Luận văn liên quan