TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI.
1. Điều kiện tự nhiên và dân cư.
2. Sơ lược lịch sử Ấn Độ cổ trung đại.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VĂN MINH ẤN ĐỘ.
1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
2. Ảnh hưởng của lịch sử.
3.Đánh giá.
III. ẤN ĐỘ NGÀY NAY.
KẾT LUẬN
45 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 19305 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và lịch sử đến sự hình thành văn minh Ấn Độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm FM Lớp KS10D Học viện Hành chính Tổng quan về Ấn Độ cổ trung đại NỘI DUNG CƠ BẢN I. TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI. 1. Điều kiện tự nhiên và dân cư. 2. Sơ lược lịch sử Ấn Độ cổ trung đại. II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VĂN MINH ẤN ĐỘ. 1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. 2. Ảnh hưởng của lịch sử. 3.Đánh giá. III. ẤN ĐỘ NGÀY NAY. KẾT LUẬN I. TỔNG QUAN 1.ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ.a.Điều kiện tự nhiên: Bản đồ Tự nhiên Ấn Độ *Vị trí địa lí: Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Ở thời cổ trung đại, phạm vi địa lí của nước Ấn Độ bao gồm cả các nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay. Hình ảnh về dãy Himalaya, sông Ấn và sông Hằng Địa hình Lãnh thổ Ấn Độ chiếm một phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ, nằm trên Mảng kiến tạo Ấn Độ (India Plate), phần phía bắc Mảng kiến tạo Ấn-Úc, phía nam Nam Á. Các bang phía bắc và đông bắc Ấn Độ nằm một phần trên dãy Himalaya. Phần còn lại ở phía bắc, trung và đông Ấn gồm đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu. Ở phía tây, biên giới phía đông nam Pakistan, là Sa mạc Thar. Miền nam Bán đảo Ấn Độ gồm toàn bộ đồng bằng Deccan, được bao bọc bởi hai dãy núi ven biển, Tây Ghats và Đông Ghats. KHÍ HẬU Đặc điểm: - Nhiệt đới gió mùa. Gió mùa Tây Nam có vai trò lớn: + Thổi từ Ấn Độ Dương vào mùa hạ mang theo nhiều mưa. + Phân bố không đều do ảnh hưởng của địa hình. b. Dân cư: Cư dân Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính: người Đraviđa chủ yếu cư chú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư chú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều tộc khác như người Hy Lạp, người Hung Nô, người Arập... Họ dần dần đồng hóa với các thành phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn Độ là một vấn đề hết sức phức tạp. Người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Đraviđa. Ngày nay những người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có nhiều tộc người Aria tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Ả Rập Saudi, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dòng máu, nhiều chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa phong phú đã tạo nên nền văn minh Ấn Độ. Hình ảnh minh họa Dân cư Ấn Độ 2. Sơ lược lịch sử cổ trung đại. a. Thời kì lịch sử văn minh lưu vực sông Ấn( từ đầu thiên kỉ III đến giữa thiên kỉ II TCN) Từ khoảng đầu thiên kỷ III TCN, nhà nước Ấn Độ đã ra đời, nhưng cả giai đoạn từ đó cho đến khoảng giữa thiên kỷ II TCN, trước đây chưa được biết đến. Mãi đến năm 1920 và 1921, nhờ việc phát hiện ra hai thành phố Harappa và Môhenjô Đarô cũng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất ở vùng lưu vực sông Ấn, người ta mới biết được thời kỳ lịch sử này. Những hiện vật khảo cổ học chỉ giúp người ta biết được tình hình phát triển của các ngành kinh tế và văn hóa, qua đó có thể suy ra đây là thời kỳ đã có nhà nước, chứ chưa biết được lịch sử cụ thể, vì vậy người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ văn hóa Harappa hoặc thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn. Con dấu của nền văn minh sông Ấn Tượng vua Priet của nền văn minh sông Ấn Bản đồ các di chỉ của nền văn minh sông Ấn b. Thời kì Vêđa (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN) Thời kỳ này, lịch sử Ấn Độ được phản ánh trong các tập Vêđa nên gọi là thời Vêđa vốn là những tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là: Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiva Vêđa, trong đó Rich Vêđa được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỷ II đến cuối thiên kỷ II TCN, còn 3 tập Vêđa khác thì được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỷ I TCN.Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghĩa là "Người cao quý") mới di cư từ Trung á vào Ấn Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kỳ này chủ yếu là vùng lưu vực sông Hằng. Trong giai đoạn đầu của thời Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn tan rã của xã hội nguyên thủy đến khoảng cuối thiên kỷ II TCN,họ mới tiến vào xã hội có nhà nước.Chính trong thời kỳ này, ở Ấn Độ đã xuất hiện hai vấn đề có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó làchế độ đẳng cấp (varna) và đạo Bàlamôn. Cột Ashoka Bản đồ nền văn minh Vêđa c. Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII.- Các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm lược của Alêchxăngđrơ Makêđônia Bắt đầu từ thế kỷ VI TCN, Ấn Độ mới có sử sách ghi chép về tình hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa hạ lưu sông Hằng. Trong số các nước như ở Tây Bắc Ấn Độ, chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN, sau khi Atiêu diệt Ba Tư, quân đội Makêđônia do Alêchxăngđrơ chỉ huy đã tấn công Ấn Độ. Quân đội của nước họ đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng cuối cùng bị thất bại. Alêchxăngđrơ định tiến sang phía Đông tấn công nước Magađa nhưng quân sĩ đã quá mệt mỏi sau một cuộc trường trinh nhiều năm nên phải rút lui, chỉ để lại một lực lượng chiếm đóng ở hai cứ điểm đã chiếm được mà thôi. Cuộc chinh phạt của Alexandros tiến vào Bắc Ấn Độ - Vương triều Môrya (321 - 187 TCN) Ngay sau khi Alêchxăngđrơ rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào này là Sanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim công). Quân Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn Độ, Sanđragupta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía Đông giành được ngôi vua ở Magađa; lập nên một triều đại mới gọi là vương triều Môrya, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại.Đến thời Axôca (273-236 TCN), vương triều Môrya đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất. Đạo Phật ra đời từ khoảng thế kỷ V TCN, đến thời kỳ này được phát triển nhanh chóng và trở thành quốc giáo. Sau khi Axôca chết, vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất dần dần tan rã, đến năm 28 TCN thì diệt vong. - Nước Cusan Trong khi tình hình chia cắt ở Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào thế kỷ I, tộc Cusan (cùng một huyết thống với người Tuốc) từ Trung á tràn vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ lập thành một nước tương đối lớn. Vua nước Cusan lúc bấy giờ là Canixca (78-123) cũng là một người rất tôn sùng đạo Phật nên thời kỳ này Phật giáo cũng rất hưng thịnh. Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ chỉ còn lại vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỷ V thì diệt vong. - Vương triều Gupta và vương triều Hacsa Trong thế kỷ III, Ấn Độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương triều Gupta được thành lập, miền Bắc và một phần miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500-528, phần lớn miền Bắc Ấn Độ bị người Eptalil xâm chiếm và thống trị, đến năm 535, triều Gupta diệt vong.Năm 606, vua Hácsa lại dựn lên một vương triều tương đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ. Chính trong thời kỳ này nhà sư Huyền Trang của Trung Quốc đã sang Ấn Độ để tìm kinh Phật. Năm 648, Hácsa chết, quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên cũng tan rã.Từ đó cho đến thế kỷ XII, Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều lần bị ngoại tộc xâm nhập. Đặc biệt từ đầu thế kỷ XI, Ấn Độ thường bị các vương triều hồi giáo ở Ápganixtan tấn công và đến năm 1200 toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập vào ápganixtan. Đồng tiền triều đại Gupta Bức họa trên tường ở hang Ajanta Tượng một nữ thần Thành phố Harapa cổ Một số hình ảnh khảo cổ được tìm thấy vào thời kì vương triều Gupta và Hacsa Ấn Độ từ thế kỷ XIII - XIX Thời kỳ Xuntan Đêli (1206-1526)Năm 1206, viên Tổng đốc của Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã tách miền Bắc Ấn Độ thành một nước riêng tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở Đêli, gọi là nước Xutan Đêli (vương quốc Hồi giáo Đêli). Từ đó đến năm 1526, ở miền Bắc Ấn Độ đã thay đổi đến 5 vương triều, nhưng đều do người ngoại tộc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóng đô ở Đêli, nên thời kỳ này gọi là thời kỳ Xuntan Đêli.Thời kỳ Môgôn (1526-1857)Nước Mông Cổ do thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206 Sau khi thành Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ chia thành nhiều nước. Dòng dõi của người Mông Cổ ở Trung á đều Tuốc hóa và đều theo đạo Hồi. Từ thế kỷ XIII, người Mông Cổ ở Trung á nhiều lần tấn công Ấn Độ. Năm 1526, họ chiếm được Đêli, thành lập vương triều mới gọi là vương triều Môgôn (Mông Cổ). Từ giữa thế kỷ XVIII, thực dân Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn biến thành thuộc địa của Anh, vương triều Môgôn đến năm 1857 bị diệt vong. Hình ảnh minh họa về vương triều MôGôn Phạm vi đế quốc MôGôn Taimahal do hoàng đế MôGôn xây dựng II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VĂN MINH ẤN ĐỘ.1.Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên: Nằm trên lưu vực của 2 con sông Ấn và sông Hằng là cơ sở thuận lợi để phát triển một nền văn minh lúa nước lâu đời, truyền thống. Cũng từ 2 con sông linh thiêng này, người Ấn Độ đã tạo nên các tín ngưỡng tâm linh độc đáo, các lễ hội đặc sắc.Dòng sông Ấn – Hằng chính là nguồn cội tạo nên một thời kì văn minh sông Ấn khởi đầu cho các thời kì phát triển cùng với các triều đại lịch sử Ấn Độ. Do có giáp với các quốc gia, vùng lãnh thổ. Đặc biệt tiếp giáp với Ấn Độ Dương và đường bờ biển dài là điều kiên mở rộng giao lưu và giao thoa với các nền văn hóa. Làm cho nền văn hóa, tôn giáo,sắc tộc…vô cùng đa dạng,phong phú. Đây cũng là đặc điểm rất quan trọng để hình thành nên nền văn minh đậm đà bản sắc ,giàu truyền thống và mang trong nó nhiều màu sắc riêng biệt.. Là vùng đất giàu tài nguyên đặc biệt là đất và các khoáng sản là cơ sở để tạo ra các loại công cụ,canh tác và đó là kết tinh quá trình sáng tạo của người Ấn Độ trong việc làm ra các sản phẩm kiến trúc, điêu khắc tinh xảo và giàu giá trị nghệ thuật. 3.Ảnh hưởng của lịch sử qua các thời kì và vương triều. Các sự kiện trong lịch sử chính là điều kiện tác động quan trọng để làm thúc đẩy sự phát triên nền văn minh Ấn Độ vốn đã giàu truyền thống càng thêm đậm đà và nhiều màu sắc phong phú hơn.Thể hiện: Vào thời kì Vêđa người Arya di cư từ Trung Á vào Ấn Độ, địa bàn là lưu vực sông Hằng. Từ việc sống trong xã hội nguyên thủy họ đã tiến vào thành lập nhà nước. Đóng góp lớn của họ là việc hình thành nên chế độ đẳng cấp,đạo Bàlamôn và các tác phẩm văn học độc đáo. Mỗi vương triều được hình thành và phát triển chứa đưng trong nó một tín ngưỡng hưng thịnh riêng, đồng thời các công trình kiến trúc, nghệ thuật độc đáo được xây dựng. Tất cả đã góp phần tạo nên những mảng ghép đặc sắc làm giàu có thêm nền văn minh Ấn Độ phát triển lâu đời. Sự xâm lăng của các nước đối với Ấn Độ cũng như sự bành trướng lãnh thổ đã làm du nhập thêm các nền văn hóa, sự giao thoa giữa các loại hình nghệ thuật,tín ngưỡng và phong tục riêng làm cho Văn minh ở Ấn Độ càng thêm phong phú, đa dạng, đặc sắc. Hình ảnh về các lễ hội ở Ấn Độ Câu 1 : Đây là bộ sử thi nào của Ấn Độ? Sử thi Mahabharata và Ramayana Câu 2: Khó khăn lớn nhất về xã hội của Ấn Độ là: Sự chi phí cho người cao tuổi ngày càng nhiều. Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng. Mâu thuẫn, xung đột sắc tộc. Tệ nạn xã hội gia tăng Câu 3: Tượng trưng cho tình yêu vĩnh cửu, một di sản kiến trúc Ấn – Hồi, tác phẩm nghệ thuật tinh tế và uy nghiêm: Đền Mina Đền Taj mahal Động Ajantan Tháp Sanchi Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp. Một số công trình kiến trúc Nhà mồ đạo Hin đu Một số tác phẩm nghệ thuật Một số dạng địa hình Ấn Độ CỘNG HÒA ẤN ĐỘ Cộng hòa Ấn Độ là một tiểu lục địa ở nam á, châu á,bị ngăn cách bởi thế giới bên ngoài bởi Ấn Độ Dương va dãy núi himalya hùng vĩ nhất thế giới. Phía bắc Ấn Độ giáp với Trung Quốc, Nepan, Butan, phía đông bắc giáp với Mianma, tây bắc giáp với Apganistan, phía tây giáp với biển Ả Rập, phía đông là vịnh Banggan, đỉnh của tam giác lục địa chìa ra Đại Tây Dương. Thủ đô là New Đêli, khoảng 11.700.000 dân. Ngôn ngữ chính:tiếng hindu, tiếng anh. Ấn Độ là quốc gia có nhiều tôn giáo, 83% theo đạo hindu, 11% theo đạo hồi, 3% theo đạo thiên chúa, 1% theo đạo phật, còn lại theo đạo jaina, đạo xích. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người 1472 USD. Đơn vị tiền tệ là đồng Rupi Ấn Độ. Ấn Độ là một trong những nước có lịch sử và văn hóa lâu đời, thời cổ đại là một trong những trung tâm của nền văn minh thế giới. Dân số 1.047.074.600 người, 72% người Indi_Arian, 25% là người đravia, còn lại là người Môngoloit. Dân số đô thị chiếm 25,7%, dân số nông thôn chiếm 74,3%. KẾT LUẬN Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ những vương quốc lớn được biết đến với cái tên Mahajanapadas Năm 3300 đến 1700 trước công nguyên. Nền văn minh thời đại đồ đá này được nối tiếp bởi thời đại đồ sắt thuộc thời kì Vệ Đà thời kỳ đã chứng kiến sự nở rộ của. Giữa hai giai đoạn này, vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, Mahavira và Thích-ca Mâu-ca ra đời Phần lớn tiểu lục địa được đế quốc Maurya chinh phạt trong suốt thế kỷ thứ 4 và thứ 3 trước công nguyên. Sau đó nó lại tan vỡ và rất nhiều phần bị thống trị bởi vô số những vương quốc thời Trung Cổ trong hơn 10 thế kỷ tiếp theo. Những phần phía Bắc được tái hợp một lần nữa vào thế kỷ thứ 4 sau công nguyên và duy trì được sự thống nhất này trong hai thế kỷ tiếp theo, dưới thời của đế quốc Gúpta. Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ. Trong suốt giai đoạn cùng thời, và vài thế kỷ sau đó, Ấn Độ bị thống trị bởi nhà chalukya, nhà chola, nhà Pallava, và nhà Pandya, và trải qua giai đoạn vàng son của mỗi thời kỳ. Cũng trong thời điểm này, Ấn Độ giáo và Phật giáo lan tỏa tới rất nhiều vùng tại Đông Nam Á. Hồi giáo du nhập vào đầu thế kỷ thứ 8 sau công nguyên cùng với sự xâm lược Baluchistan và Sindh của Muhammad bin Qasim. Những sự xâm lấn của đạo Hồi từ Trung Á giữa thế kỷ thứ 10 và 15 sau công nguyên dẫn đến việc phần lớn Bắc Ấn Độ chịu sự thống trị của Vương quốc Hồi giáo Delhi giai đoạn đầu và sau đó là đế quốc Mogul. Sự thống trị của đế quốc Mogul, đế chế đã mở ra giai đoạn của thời kỳ thănag hoa và phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật và kiến trúc, đã bao phủ phần lớn phía Bắc tiểu lục địa. Tuy nhiên, một vài quốc gia độc lập, như đế quốc Maratha và đế quốc Vijayanagara, cũng phát triển hưng thịnh trong cùng giai đoạn tại phía Tây và Bắc Ấn Độ. Mở đầu giai đoạn giữa thế kỷ 18 và hơn một thế kỷ sau đó, Ấn Độ dần dần bị mất công ty Đông Ấn bởi Anh Quốc thôn tính. Nỗi bất mãn với sự cai trị của công ty này đã dấn đến cuộc nổi loạn Ấn Độ 1857, sau đó thì Ấn Độ được điều hành trực tiếp bởi Hoàng Gia Anh Quốc cũng như chứng kiến thời kỳ phát triển mạnh mẽ về cơ sở vật chất cũng như sự suy thoái về kinh tế. Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, cuộc đấu tranh độc lập toàn quốc được khởi xướng bởi đảng Quốc Đại Ấn Độ, sau đó được kết hợp bởi đảng liên đoàn Hồi giáo. Tiểu lục địa giành được độc lập từ vương quốc Anh năm 1947 sau khi bị chia cắt thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakistan. Cánh phía Đông của Pakistan sau đó trở thành quốc gia Bangladesh năm 1971 CÂU HỎI CỦNG CỐ BÀI Câu 1: Các bạn hãy cho biết ý nghĩa của quốc kỳ Ấn Độ? Câu 2: Tại sao con sông Hằng lại được coi là con sông thiêng của người Ấn Độ ngày nay? Câu 3: Cộng hòa Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày tháng năm nào? Câu 1: Do ba hình chữ nhật bằng nhau màu cam, trắng và lục nằm ngang song song hợp thành. Chính giữa nền cờ màu trắng có một bánh xe Phật pháp màu xanh lam với 24 chiếc nan hoa. Hình bánh xe này là một trong những đồ án đầu sư tử ở đầu trụ đá Thánh địa Phật giáo đời vua Asoka thuộc vương triều Khổng tước (vương triều Maurya Dynasty) Ấn Độ. Màu cam tượng trưng cho lòng dũng cảm, hiến thân và tinh thần hy sinh thân mình, đồng thời cũng là màu pháp y của giáo đồ Phật giáo; màu trắng tượng trưng cho thuần khiết và chân lý; màu lục biểu thị lòng tin, đại diện cho sức sinh sản mà sự sống nhân loại dựa vào để sinh tồn. Bánh xe Phật pháp là bánh xe linh thiêng của nhân dân Ấn Độ, bánh xe chân lý, bánh xe chuyển động tiến về phía trước, bánh xe quay mãi trời xanh. Đồ án quốc kỳ ra đời năm 1921, khi đó chính giữa nền cờ là một bánh xe quay tượng trưng cho văn minh cần lao của nhân dân Ấn Độ. Ngày 22/7/1947, quyết định đổi bánh xe quay sợi thành bánh xe Phật pháp, chính thức được xem là quốc kỳ Ấn Độ. Ngày 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố là nước Cộng hòa và sử dụng quốc kỳ này. NHÓM FMO1 LỚP KS10D