Trong mục tiêu về cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta xác định xây dựng một
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực.
Hoạt động xét xử, một trong những hoạt động áp dụng pháp luật, là nhiệm vụ chủ
yếu và thường xuyên của toà án nhân dân. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, đặc biệt là các chủ trương về đổi mới công tác tư pháp, hoạt động xét xử nói
chung và hoạt động giải quyết các vụ án về dân sự, trong đó có các án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật đã đạt được nhiều thành tựu. Những kết quả trong hoạt động xét xử về
phân chia di sản thừa kế thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân đã góp phần bảo đảm
quyền tự do, dân chủ và quyền sở hữu về tài sản của công dân; giữ vững trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, việc xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật vẫn còn để xảy ra nhiều sai sót, xét xử thiếu thống nhất, hoặc lúng
túng khi v ận dụng pháp luật, các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do nhận thức chưa đầy đủ về
pháp luật của cá nhân và do sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp toà án.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản
thừa kế đã và đang đặt ra những yêu cầu mới vừa cấp bách và lâu dài, đòi hỏi không ngừng
nâng cao chất lượng xét xử, góp phần đáp ứng quá trình thực hiện cải cách tư pháp xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do đó, việc nghiên
cứu lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án của toà án nhân dân là một nhiệm vụ cần thiết
95 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3665 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mục tiêu về cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta xác định xây dựng một
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực.
Hoạt động xét xử, một trong những hoạt động áp dụng pháp luật, là nhiệm vụ chủ
yếu và thường xuyên của toà án nhân dân. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, đặc biệt là các chủ trương về đổi mới công tác tư pháp, hoạt động xét xử nói
chung và hoạt động giải quyết các vụ án về dân sự, trong đó có các án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật đã đạt được nhiều thành tựu. Những kết quả trong hoạt động xét xử về
phân chia di sản thừa kế thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân đã góp phần bảo đảm
quyền tự do, dân chủ và quyền sở hữu về tài sản của công dân; giữ vững trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, việc xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật vẫn còn để xảy ra nhiều sai sót, xét xử thiếu thống nhất, hoặc lúng
túng khi vận dụng pháp luật, các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do nhận thức chưa đầy đủ về
pháp luật của cá nhân và do sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp toà án.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản
thừa kế đã và đang đặt ra những yêu cầu mới vừa cấp bách và lâu dài, đòi hỏi không ngừng
nâng cao chất lượng xét xử, góp phần đáp ứng quá trình thực hiện cải cách tư pháp xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do đó, việc nghiên
cứu lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án của toà án nhân dân là một nhiệm vụ cần thiết.
Trong bối cảnh đó, việc nhận thức lại những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
và nghiên cứu áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của toà án nhân dân là nhằm góp phần không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng trong hoạt động xét xử; Vì vậy, học viên chọn đề tài:
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao ở Việt Nam làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong trong
hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế đã được giới khoa học pháp lý
và đặc biệt là những người làm công tác xét xử của ngành toà án quan tâm. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề trên đây với những khía cạnh và mức độ khác nhau: Áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay- Lê
Xuân Thân, Luận án tiến sỹ luật (2004); Cơ sở lý luận và thực tiễn của những qui định
chung về thừa kế trong Bộ luật dân sự- Nguyễn Minh Tuấn, Luận án tiến sỹ luật (2006);
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Toà án nhân dân các cấp ở
Việt Nam hiện nay- Chu Đức Thắng, Luận văn thạc sỹ luật (2004); Áp dụng pháp luật
trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án ma tuý ở Việt Nam hiện nay- Bùi Mạnh
Cường, luận văn thạc sỹ luật (2006); Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình của Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên - Hoàng Văn Hạnh, Luận văn thạc sỹ
luật (2006); Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt nam trong 60 năm qua- Phùng
Trung Tập, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2006; Một số vấn đề về thừa kế tiền gửi
ngân hàng- Nguyễn Thanh, Tạp chí Ngân hàng, số 17/2006; Cần xác định nội dung cụm
từ “những người có quyền thừa kế di sản của nhau” trong Điều 644 Bộ luật dân sự-
Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số 2/2005; Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự
một số nước trên thế giới- Trần Thị Nhuệ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2006;
Quyền thừa kế trong luật dân sự La Mã cổ đại - Nguyễn Đình Huy, Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 4/2001; Những điểm mới của các qui định về thừa kế trong Bộ luật dân sự 2005 -
Lê Minh Hùng, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2006; Bàn về áp dụng pháp luật trong
công tác xét xử, Tạp chí Toà án nhân dân, số 5/2005…
Các công trình khoa học được liệt kê trên đây đã đề cấp đến việc áp dụng pháp luật
nói chung và áp dụng pháp luật của toà án trong một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, cho
đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu nghiên cứu một cách tương đối toàn diện
và có hệ thống vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam hiện nay; vì
vậy, đề tài của luận văn mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống cả về cơ sở lý luận
và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các án liên quan đến phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật ở Toà án nhân dân tối cao hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các
vụ án về phân chia di sản thừa kế trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng
pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà án nhân dân tối cao. Từ đó, luận văn đề xuất các quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trọng hoạt động giải quyết các vụ án
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao ở Việt nam hiện
nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết
các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật dưới góc độ lý luận Mác - Lênin về
Nhà nước và pháp luật; làm rõ những đặc trưng và vai trò của hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án nhân
dân hiện nay.
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân
chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian qua, cũng
như làm rõ các nguyên nhân của những tồn tạị
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật;
góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án về phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao.
- Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành lý luận và lịch
sử về Nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp
dụng pháp luật, thực tiễn liên quan đến vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động giải
quyết các vụ án phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án nhân dân tối cao.
Về mốc thời gian nghiên cứu, luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà án
nhân dân tối cao từ năm 2005 (sau khi Bộ luật dân sự được công bố) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về Nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, pháp chế; đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân ở nước ta hiện nay; quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong thời kỳ mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, logic và hệ
thống…
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Với tư cách là một luận văn thạc sỹ, tác giả nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về việc áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Lần đầu tiên, tác giả luận văn có những đóng góp cơ
bản như sau:
- Xây dựng khái niệm, phân tích các đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của toà án
nhân dân.
- Đã đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
án nhân dân tối cao ở nước ta hiện nay.
- Khái quát các quan điểm và đề nghị các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp
luật có hiệu quả trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận về áp dụng pháp
luật trong các cơ quan tư pháp, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho những người trực
tiếp làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng
dạy, tổng kết thực tiễn về áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử toà án nhân dân nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA
TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA DI SẢN
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI
CAO
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hoá
đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [12, tr.143].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung do các cơ quan
nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình tự thể hiện dưới một hình
thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Xét bình diện chung
nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm các
đường lối, chủ trương đó được triển khai và thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội,
để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; để nhân dân phát huy thực hiện quyền dân
chủ, các quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Pháp luật với tư cách là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động và ảnh
hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của kiến trúc thượng tầng pháp lý; pháp
luật có vai trò duy trì trật tự xã hội. Trong quan hệ với nhà nước, vai trò của pháp luật luôn
gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát huy được vai trò của
nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, quản lý, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đối với nhà nước, pháp luật là cơ sở để tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của
quyền lực chính trị đồng thời pháp luật cùng là phương tiện để ràng buộc nhà nước nhằm
hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền của nhà nước, tránh cho nhà nước khỏi tình trạng hoạt
động tuỳ tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Pháp luật nói chung và pháp luật xã
hội chủ nghĩa nói riêng có vai trò và giá trị xã hội rất quan trọng mà không một công cụ,
phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có
thể thực sự phát huy hiệu quả khi các quy định của pháp luật được các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội, công dân thực hiện một cách tự giác, nghiêm minh. Do vậy, vấn đề
đặt ra là không phải chỉ có đủ các các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội mà điều
quan trọng là pháp luật cần phải được thực hiện trong thực tế.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có tổ chức, có mục
đích của con người, là những hoạt động, những cách thức, quy trình làm cho các quy tắc
xử sự chung chứa đựng các quy phạm pháp luật trở thành hành vi, cách xử sự thực tế của
chủ thể pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thì các quan
hệ xã hội trở thành các quan hệ pháp luật với các chủ thể mang quyền và nghĩa vụ pháp
lý tương ứng. Khi các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mình sẽ làm phát sinh các hành vi pháp luật, hay nói cách khác, thực hiện pháp luật làm
cho các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật được thực hiện trong đời sống xã
hội.
Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia
thực hiện pháp luật thành những hình thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp
luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ (tuân theo) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Chủ thể thực
hiện hình thức tuân thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các
cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ
việc thực hiện các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng con cái của cha mẹ… Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất
cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân
trong xã hội.
Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình (những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể
thực hiện). Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội. Đương
nhiên, vì quyền và tự do pháp lý là những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể thực
hiện nên chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do tuỳ
theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua
các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của
pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những
quan hệ pháp luật cụ thể. Thông qua hình thức này ý chí của nhà nước được trở thành
hiện thực, nhà nước được thực hiện các chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức
nhà nước trong khuôn khổ pháp luật.
Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật mà mọi chủ
thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
chỉ dành cho các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có quyền. Áp dụng pháp luật được
xem là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, nó vừa là hình thức thực
hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ
chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định pháp luật. Do vậy, áp dụng
pháp luật là hình thức rất quan trọng và được tiến hành trong các trường hợp sau:
- Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật
hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với tổ chức hay cá nhân nào đó.
Ví dụ: Một công dân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi đã có đầy đủ các yếu tố
thành tội trộm cắp tài sản được qui định trong Bộ luật hình sự, không phải ngay sau đó
trách nhiệm hình sự mặc nhiên phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành các biện
pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
và những người có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định
của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm
và buộc người này phải chấp hành.
- Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc nhiên, phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ: Hiến pháp 1992
quy định lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân nhưng nhưng quan hệ pháp luật lao
động với những quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa công dân với một cơ quan nhà nước chỉ
phát sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng người đó
vào làm việc.
- Đối với một số quan hệ pháp luật nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm
tra giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc nhà nước xác nhận sự
tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Uỷ ban nhân dân xã, phường trị trấn
chứng nhận di chúc hay chứng nhận việc đăng ký kết hôn [33].
Tóm lại, áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cán bộ công chức có thẩm
quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ
vào những quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
của Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam
Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao liên quan đến các khái niệm có tính chất công cụ: di sản; thừa kế;
quyền thừa kế; thừa kế theo pháp luật và xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Vì vậy, để xây
dựng khái niệm áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần phải làm rõ các khái niệm trên.
a, Di sản: Theo Từ điển tiếng Việt: Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại
[41].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác" [31].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có
tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những
quy định trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản được quy định
tại Điều 163 Bộ luật dân sự: "Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" .
b, Thừa kế: Theo Từ điển tiếng Việt, thừa kế được hiểu là hưởng của người khác
để lại cho, hay được hiểu là: “Việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những
người còn sống” [10, tr.216]. Khái niệm này đã phản ánh chính xác bản chất cũng như
nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và
sự phát triển của xã hội loài người. Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế cùng tồn tại
song song trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, chúng có mối liên hệ biện chứng
với nhau, chỉ đạo, chi phối lẫn nhau, cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội loài
người.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay
trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Trong thời kỳ
này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một qua