Hiệu quả chuỗi cung ứng phụ thuộc vào những hoạt động đưa đến bởi tất cả những
thành viên trong chuỗi cung ứng; một mối liên kết yếu có thể ảnh hưởng một cách
tiêu cực đến mỗi vị trí khác trong chuỗi. Trong khi mỗi người ủng hộ nguyên tắc
khách quan tối ưu hóa hiệu quả chuỗi cung ứng, mục tiêu chính của mỗi công ty là
sự tối ưu hóa hiệu quả của chính bản thân nó. Và chẳng may, như trình bày trong
chương này, hành vi tự phục vụ bởi mỗi thành viên của chuỗi cung ứng có thể ảnh
hưởng tới hiệu quả chuỗi cung ứng kém tối ưu hơn. Trong những tình huống đó,
những công ty trong chuỗi cung ứng hưởng lợi ích nhờ sự hưởng lợi ích từ sự phối
hợp vận hành tốt hơn.
Trong chương này chúng ta khảo sát cặn kẽ một vài thách thức của sự phối hợp
chuỗi cung ứng. Thách thức đầu tiên là hiệu ứng bullwhip (hiệu ứng cái roi da) :
khuynh hướng cho tính biến thiên của cầu tăng lên, thường đáng kể, khi bạn thay
đổi chuỗi cung ứng (từ nhà bán lẻ, đến nhà phân phối, đến nhà máy, đến những
nhà cung ứng nguyên liệu thô, vân vân). Đã được xác định rằng tính biến thiên
trong bất kỳ hình thức nào thì gây rắc rối phức tạp cho hiệu quả vận hành, nó thì
rõ ràng hiệu ứng bullwhip thì không là một hiện tượng đáng mong muốn. Chúng ta
nhận biết những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip và đề xuất một vài kỹ thuật
để khắc phục nó.
61 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2633 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài dịch Chương 14: Sự phối hợp chuỗi cung ứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
Bài dịch môn : QUẢN TRỊ VẬN HÀNH
Giảng viên hướng dẫn : Ths. Tạ Thị Bích Thủy
Nhóm thực hiện : Huỳnh Gia Xuyên
Vũ Thị Bích Vân
Lớp : MBA8
Nhóm thực hiện : Huỳnh Gia Xuyên, Vũ Thị Bích Vân
TP. HỒ CHÍTrang MINH 1
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
CHƯƠNG 14
SỰ PHỐI HỢP CHUỖI CUNG ỨNG
Hiệu quả chuỗi cung ứng phụ thuộc vào những hoạt động đưa đến bởi tất cả những
thành viên trong chuỗi cung ứng; một mối liên kết yếu có thể ảnh hưởng một cách
tiêu cực đến mỗi vị trí khác trong chuỗi. Trong khi mỗi người ủng hộ nguyên tắc
khách quan tối ưu hóa hiệu quả chuỗi cung ứng, mục tiêu chính của mỗi công ty là
sự tối ưu hóa hiệu quả của chính bản thân nó. Và chẳng may, như trình bày trong
chương này, hành vi tự phục vụ bởi mỗi thành viên của chuỗi cung ứng có thể ảnh
hưởng tới hiệu quả chuỗi cung ứng kém tối ưu hơn. Trong những tình huống đó,
những công ty trong chuỗi cung ứng hưởng lợi ích nhờ sự hưởng lợi ích từ sự phối
hợp vận hành tốt hơn.
Trong chương này chúng ta khảo sát cặn kẽ một vài thách thức của sự phối hợp
chuỗi cung ứng. Thách thức đầu tiên là hiệu ứng bullwhip (hiệu ứng cái roi da) :
khuynh hướng cho tính biến thiên của cầu tăng lên, thường đáng kể, khi bạn thay
đổi chuỗi cung ứng (từ nhà bán lẻ, đến nhà phân phối, đến nhà máy, đến những
nhà cung ứng nguyên liệu thô, vân vân). Đã được xác định rằng tính biến thiên
trong bất kỳ hình thức nào thì gây rắc rối phức tạp cho hiệu quả vận hành, nó thì
rõ ràng hiệu ứng bullwhip thì không là một hiện tượng đáng mong muốn. Chúng ta
nhận biết những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip và đề xuất một vài kỹ thuật
để khắc phục nó.
Một thách thức thứ hai của sự phối hợp chuỗi cung ứng đến từ những mâu thuẫn
khích lệ trong số chuỗi cung ứng của những công ty độc lập : một hoạt động tối đa
hóa lợi nhuận của một công ty không thể là tối đa hóa lợi nhuận công ty khác. Ví
dụ, một công ty khuyến khích tích trữ hàng hóa tồn kho nhiều hơn, hoặc lắp đặt hệ
Trang 1
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
thống máy móc công suất lớn hơn, hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng nhanh hơn,
không thể giống sự khuyến khích của một công ty khác, bởi vì tạo ra một vài mâu
thuẫn giữa chúng. Chúng ta sử dụng một ví dụ được cách điệu hóa của chuỗi cung
ứng trong việc bán kính mát để minh họa sự hiện diện và những kết quả của những
mâu thuẫn khích lệ. Ngoài ra, chúng ta đề nghị một vài biện pháp đối với vấn đề
này.
14.1 Hiệu ứng bullwhip : Những nguyên nhân và những kết quả
Hình vẽ 14.1 cho thấy phần trăm thay đổi trong hoạt động tại ba mức độ dọc theo
một chuỗi cung ứng : công nghiệp máy móc công cụ, công nghiệp tự động (mà là
một khách hàng quan trọng cho công nghiệp máy móc công cụ), và toàn bộ nền
kinh tế. Hình vẽ minh họa rằng sự sản xuất máy móc tự động thì không ổn định
hơn toàn bộ nền kinh tế (mà có lẽ là phù hợp nhiều với nhu cầu máy móc tự động)
và những đơn đặt hàng máy móc công cụ thậm chí không ổn định nhiều hơn sự
sản xuất máy móc tự động.
Hình vẽ 14.2 cho thấy một mô hình tương tự, đòi hỏi những dữ liệu này là phần
trăm thay đổi trong nhu cầu (trong đồng đôla) tại ba mức độ trong chuỗi cung ứng
chất bán dẫn : nhu cầu máy tính cá nhân thì ít thay đổi nhất, nhu cầu những chất
bán dẫn có mức thay đổi trung gian, và nhu cầu thiết bị chế tạo chất bán dẫn thay
đổi nhiều nhất.
Trang 2
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Hình vẽ 14.1 :
Phần trăm thay
đổi trong hoạt 80%
động từ năm 1961
đến 1991 tại ba 60%
mức độ của chuỗi
cung ứng của máy
móc công cụ : 40%
GDP (đường đậm
nét), công nghiệp 20%
sản xuất chỉ mục
tự động (những
điểm kim cương), 0%
và nh ững đơn đặt
hàng mới trong -20%
công nghiệp máy
móc công cụ
(những điểm -40%
tròn)
Nguồn : -60%
Anderson, Fine,
và Parker (1996). -80%
Mô hình gia tăng sự không ổn định này khi bạn di chuyển một chuỗi cung ứng (từ
nhà bán lẻ, đến nhà phân phối, đến sản lượng, vân vân) thì được gọi là hiệu ứng
bullwhip vì nó giống như gia tăng biên độ dao động khi quan sát một cây roi da bị
nứt. Thuật ngữ được đặt ra bởi Procter & Gamble để mô tả họ quan sát được
những gì trong chuỗi cung ứng tả lót của họ : Họ biết rằng nhu cầu cuối cùng cho
những tả lót thì khá ổn định (tiêu thụ bởi những đứa bé sơ sinh), nhưng nhu cầu
đòi hỏi cho những nhà máy tả lót của họ thì rất dễ thay đổi. Không hiểu vì sao tính
biến thiên thì đang làm lan truyền chuỗi cung ứng của họ.
Hiệu ứng bullwhip không nâng cao hiệu quả của một chuỗi cung ứng : làm tăng sự
không ổn định tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi cung ứng có thể dẫn đến sản phẩm
thiếu hụt, dôi thêm hàng hóa tồn kho (mà dẫn đến làm giảm những chi phí), mức
sử dụng thấp của công suất, và/hoặc chất lượng kém. Nó tác động tới những giai
Trang 3
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
đoạn ngược dòng trong chuỗi cung ứng, mà phải trực tiếp đối mặt với tác động của
nhu cầu thay đổi, nhưng nó cũng không trực tiếp tác động tới những giai đoạn
xuôi dòng trong chuỗi cung ứng, mà phải đối phó với những sự bổ sung kém tin
cậy hơn từ những giai đoạn ngược dòng. Ngoài ra, khi chúng ta xem trong hình vẽ
14.1 và 14.2, hiệu ứng bullwhip thì phổ biến. Vì thế, nó thì rất quan trọng rằng
những nguyên nhân của nó được nhận ra để khắc phục, hoặc ít nhất có những kế
hoạch làm giảm nhẹ, có thể được phát triển.
Hình vẽ 14.1 và 14.2 cung cấp dấu hiệu thực tế của hiệu ứng bullwhip, nhưng để
hiểu được những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip thì cách tốt nhất là mang nó
vào phòng thí nghiệm, nghiên cứu nó trong một môi trường ít biến động. Môi
trường ít biến động của chúng ta là một chuỗi cung ứng đơn giản với hai mức độ.
Mức độ cao nhất chỉ có một nhà cung ứng và mức độ kế tiếp có 20 nhà bán lẻ, mỗi
người với một cửa hàng. Chúng ta hãy tập trung vào một sản phẩm đơn lẻ, một sản
phẩm mà nhu cầu hàng ngày có một phân phối Poisson với trung bình cộng 1.0
đơn vị tại mỗi nhà bán lẻ. Vì thế, tổng cầu của người tiêu dùng đi theo một phân
phối Poisson với trung bình cộng 20.0 đơn vị. (Nhắc lại rằng tổng của những phân
phối Poisson cũng là một phân phối Poisson). Hình vẽ 14.3 cho thấy chuỗi cung
ứng này.
Trước khi chúng ta nhận ra những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip, chúng ta
phải đồng ý rằng chúng ta sẽ đo lường và nhận dạng nó bằng cách nào. Chúng ta
sử dụng định nghĩa dưới đây :
Hiệu ứng bullwhip xảy ra trong một chuỗi cung ứng nếu tính biến thiên của nhu
cầu tại một mức độ của chuỗi cung ứng lớn hơn tính biến thiên của nhu cầu tại
mức độ kế tiếp thấp hơn trong chuỗi cung ứng, ở đó tính biến thiên được đo lường
bằng hệ số biến thiên.
Trang 4
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Ví dụ, nếu hệ số biến thiên trong nhu cầu nhà cung ứng (mà là tổng những đơn đặt
hàng của nhà bán lẻ) lớn hơn hệ số biến thiên của tổng cầu những nhà bán lẻ, lúc
đó hiệu ứng bullwhip xảy ra trong chuỗi cung ứng của chúng ta.
Hình vẽ 14.2 :
Changes in
Phần trăm thay demand
đổi hàng năm
80%
trong nhu cầu
(đồng đôla) tại ba
mức độ của chuỗi 60%
cung ứng chất Semiconductor
bán dẫn : những 40% Equipment
máy tính cá nhân,
những chất bán
dẫn, và công cụ 20% PC
chế tạo chất bán
dẫn. 0%
-20% Semiconductor
-40%
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Chúng ta đã biết đánh giá hệ số biến thiên như thế nào trong tổng cầu những nhà
bán lẻ : tổng cầu là phân phối Poisson với trung bình cộng 20, vì thế độ lệch chuẩn
của nhu cầu là 20 = 4.47 và hệ số biến thiên là 4.47/20 = 0.22. Hệ số biến thiên
của nhu cầu nhà cung ứng (nghĩa là, hệ số biến thiên của những đơn đặt hàng nhà
bán lẻ) phụ thuộc vào cách những nhà bán lẻ đặt những đơn đặt hàng với nhà
cung ứng.
Điều thú vị, trong khi cách thức mà những nhà bán lẻ nộp những đơn đặt hàng
cho nhà cung ứng có thể ảnh hưởng tới độ lệch chuẩn của những đơn đặt hàng
những nhà bán lẻ, nó không thể ảnh hưởng trung bình cộng của những đơn đặt
hàng những nhà bán lẻ. Để giải thích, dựa vào nội dung của định luật bảo toàn, sự
gia nhập một nhà bán lẻ phải có giá trị ngang với sự rút khỏi của nhà bán lẻ ở mức
Trang 5
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
trung bình, mặt khác số lượng bên trong nhà bán lẻ sẽ không ổn định : Nếu gia
nhập nhiều hơn rút khỏi, lúc đó hàng hóa tồn kho tại nhà bán lẻ tiếp tục tăng lên,
trái lại nếu gia nhập ít hơn rút khỏi, lúc đó hàng hóa tồn kho tại nhà bán lẻ tiếp tục
giảm xuống. Vì thế, điều này không quan trọng khi những nhà bán lẻ lựa chọn như
thế nào để đặt mua hàng hóa tồn kho từ phía nhà cung ứng, trung bình cộng của
nhu cầu nhà cung ứng (nghĩa là, tổng số đơn đặt hàng của những nhà bán lẻ) bằng
trung bình cộng của tổng cầu những nhà bán lẻ. Trong trường hợp này, nhu cầu
trung bình cộng của nhà cung ứng là 20 đơn vị mỗi ngày, y hệt nhu cầu trung bình
cộng của người tiêu dùng là 20 đơn vị mỗi ngày.
Để đánh giá hệ số biến thiên trong nhu cầu nhà cung ứng, chúng ta vẫn cần đánh
giá độ lệch chuẩn của nhu cầu nhà cung ứng, mà phụ thuộc vào những nhà bán lẻ
nộp những đơn đặt hàng như thế nào. Đầu tiên chúng ta giả sử rằng những nhà bán
lẻ sử dụng một chính sách đặt hàng thêm (order-up-to) để đặt thêm hàng từ nhà
cung ứng.
Một đặc điểm then chốt của một chính sách order-up-to là số lượng đặt hàng trong
bất kỳ thời kỳ nào bằng lượng nhu cầu trong thời kỳ trước đó (xem Chương 11).
Kết quả cho thấy, nếu tất cả những nhà bán lẻ sử dụng những chính sách order-up-
to xem xét lại mỗi ngày, khi đó những đơn đặt hàng hàng ngày của họ sẽ giống với
nhu cầu hàng ngày của họ. Nói cách khác, không có hiệu ứng bullwhip !
Nếu tất cả những nhà bán lẻ sử dụng một chính sách order-up-to (với một order-
up-to không đổi mức độ S), khi đó độ lệch chuẩn của những đơn đặt hàng của nhà
bán lẻ trong một thời kỳ bằng độ lệch chuẩn của nhu cầu người tiêu dùng trong
một thời kỳ; nghĩa là, không có hiệu ứng bullwhip.
Như vậy chúng ta bắt đầu cuộc thí nghiệm của chúng ta với mục đích tìm ra một
nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip và phát hiện ra rằng hiệu ứng bullwhip không
cần phải xảy ra trong thực tế. Nó không xảy ra khi mỗi thành viên tại cùng một
mức độ của chuỗi cung ứng thực hiện một chính sách “kéo cầu” hàng hóa tồn kho
Trang 6
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Hình vẽ 14.3 :
Một chuỗi cung Retailers’ Retailers’
ứng với một nhà orders/ demands
cung ứng và 20 supplier’s
nhà bán lẻ demand Retailer 1
Nhu cầu mỗi ngày
tại mỗi nhà bán lẻ
theo một phân
phối Poisson với Retailer 2
trung bình cộng Supplier
1.0 đơn vị.
.
Retailer 20
mỗi thời kỳ, nghĩa là, những đơn đặt hàng của họ mỗi thời kỳ một cách chính sách
là bằng với nhu cầu của họ. Chẳng may, những công ty không luôn luôn chấp
nhận như là “sự bóp méo không bị hạn chế” quản lý hàng hóa tồn kho. Thật ra, họ
có những nguyên nhân cá nhân tốt để làm chệch hướng từ hành vi như vậy. Đó là
những độ lệch mà là nguyên nhân gây ra hiệu ứng bullwhip. Kế tiếp chúng ta xác
định năm nguyên nhân của chúng.
Order synchronization (Sự đồng bộ hóa đơn đặt hàng)
Giả sử những nhà bán lẻ sử dụng những chính sách order-up-to, nhưng họ chỉ đặt
hàng một lần mỗi tuần. Họ chọn lựa đặt hàng hàng tuần thay vì hàng ngày vì họ
gánh phải một chi phí cố định cho mỗi đơn đặt hàng, và do đó ao ước làm giảm
bớt số lượng những đơn đặt hàng họ tạo nên (Xem phần 11.8). Vì thế, đầu mỗi
tuần, một nhà bán lẻ nộp đến cho nhà cung ứng một đơn đặt hàng mà bằng với nhu
cầu của nhà bán lẻ từ tuần trước. Nhưng vì chúng ta quan tâm đến nhu cầu nhà
cung ứng hàng ngày, chúng ta cần biết vào ngày nào trong tuần thì mỗi nhà bán lẻ
bắt đầu đặt hàng. Để đơn giản chúng ta giả định rằng có năm ngày mỗi tuần và
những nhà bán lẻ đều sắp đặt khoảng cách đều nhau suốt tuần; nghĩa là, bốn trong
số 20 nhà bán lẻ nộp những đơn đặt hàng vào thứ hai, bốn nhà bán lẻ khác nộp
Trang 7
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
những đơn đặt hàng vào thứ ba, và vân vân. Hình vẽ 14.4 cho thấy một kết quả
mô phỏng của tình huống này. Từ hình vẽ đó cho thấy rằng tính biến thiên trong
nhu cầu người tiêu dùng gần giống như tính biến thiên trong nhu cầu nhà cung
ứng. Thật vậy, nếu chúng ta mô phỏng nhiều thời kỳ hơn và đánh giá những độ
lệch chuẩn của hai chuỗi dữ liệu đó, chúng ta thật sự khám phá ra rằng độ lệch
chuẩn của nhu cầu người tiêu dùng một cách chính xác bằng độ lệch chuẩn của
nhu cầu nhà cung ứng. Nói cách khác, chúng ta vẫn không tìm thấy hiệu ứng
bullwhip.
Nhưng chúng ta làm một giả định then chốt trong sự mô phỏng của chúng ta.
Chúng ta giả định rằng những chu kỳ đơn đặt hàng của những nhà bán lẻ thì đều
được đặt cách đều nhau trong suốt tuần : số lượng đơn đặt hàng của những nhà
bán lẻ vào thứ hai giống như vào thứ tư giống như vào thứ sáu. Nhưng trường hợp
này thì khó có thể xảy ra trong thực tế : những công ty có khuynh hướng thích nộp
những đơn đặt hàng của họ hơn vào một ngày đặc biệt của tuần hoặc một ngày đặc
biệt của tháng. Để minh họa cho kết quả của sự ưu tiên này, chúng ta giả sử những
nhà bán lẻ có khuynh hướng ủng hộ đầu và cuối tuần : chín nhà bán lẻ đặt hàng
vào thứ hai, năm nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ ba, một nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ
tư, hai nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ năm và ba nhà bán lẻ đặt hàng vào thứ sáu.
Hình vẽ 14.5 cho thấy kết quả của sự mô phỏng với tình huống đó.
Chúng ta đã phát hiện ra hiệu ứng bullwhip ! Nhu cầu hàng ngày của nhà cung
ứng thì rõ ràng thay đổi rất nhiều so với nhu cầu người tiêu dùng. Cho ví dụ đặc
biệt này, hệ số biến thiên của nhu cầu nhà cung ứng là 0.78 mặc dù hệ số biến
thiên của nhu cầu người tiêu dùng chỉ là 0.19 : nhu cầu của nhà cung ứng thì xấp
xỉ biến thiên nhiều hơn 4 lần nhu cầu người tiêu dùng ! Và đây không là kết quả
của một mô hình nhu cầu đặc biệt kỳ lạ; nghĩa là, kết quả định tính giống nhau đạt
được nếu một khoảng thời gian rất dài được mô phỏng. Thật vậy, so sánh, bạn
nhận thấy rằng nhu cầu người tiêu dùng ở hình vẽ 14.5 thì giống hệt nhu cầu người
tiêu dùng ở hình vẽ 14.4.
Trang 8
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Hình vẽ 14.4 : Mô
phỏng nhu cầu
khách hàng hàng 70
ngày (đường liên
tục) và nhu cầu 60
nhà cung ứng
hàng ngày (những
50
điểm tròn).
Nhu cầu nhà cung
ứng bằng tổng số 40
những đơn đặt
hàng của những Units 30
nhà bán lẻ.
20
10
0
Time (each period equals one day)
Bây giờ chúng ta không chỉ quan sát hiệu ứng bullwhip, mà chúng ta còn phải
nhận dạng chính xác một trong số những nguyên nhân của nó, sự đồng bộ hóa đơn
đặt hàng : nếu những chu kỳ đặt hàng của những nhà bán lẻ thậm chí trở nên đồng
bộ hóa một ít, nghĩa là, họ có khuynh hướng tạo thành cụm thời kỳ đồng thời, khi
dó hiệu ứng bullwhip xuất hiện. Trong khi những nhà bán lẻ đặt hàng ở mức trung
bình để bằng với nhu cầu người tiêu dùng ở mức trung bình, phụ thuộc vào sự
đồng bộ hóa đơn đặt hàng của họ có những thời kỳ mà họ đặt hàng nhiều đáng kể
hơn mức trung bình và những thời kỳ mà họ đặt hàng ít đáng kể hơn mức trung
bình, bằng cách ấy áp đặt nhu cầu tăng thêm không ổn định vào nhà cung ứng yếu
hơn.
Sự đồng bộ hóa đơn đặt hàng cũng được quan sát có giá trị cao hơn chuỗi cung
ứng. Ví dụ, giả sử nhà cung ứng thực hiện một hệ thống hoạch định nhu cầu vật
Trang 9
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
liệu (MRP) để quản lý sự bổ sung của thành phần cấu tạo hàng hóa tồn kho. (Đây
là một hệ thống máy tính mà xác
Hình vẽ 14.5 : Mô
phỏng nhu cầu 70
khách hàng hàng
ngày (đường liên 60
tục) và nhu cầu
nhà cung ứng
(những điểm 50
tròn) khi những
nhà bán lẻ đặt 40
hàng hàng tuần.
Chín nhà bán lẻ đặt Units 30
hàng vào thứ hai,
năm nhà bán lẻ vào 20
thứ ba, một nhà
bán lẻ vào thứ tư,
hai nhà bán lẻ vào 10
thứ năm, và ba nhà
bán lẻ vào thứ sáu. 0
Time (e ach period eq uals o ne day)
định số lượng và thời điểm của các hạng mục nhu cầu phụ thuộc dựa trên những
dự báo nhu cầu tương lai và những lịch trình sản xuất). Nhiều công ty thực hiện
những hệ thống MRP của họ dựa trên một cơ sở hàng tháng. Ngoài ra, nhiều công
cụ những hệ thống của họ tạo ra những đơn đặt hàng bổ sung vào tuần đầu tiên của
tháng. Vì thế một nhà cung ứng của nhà cung ứng nhận được một số lượng lớn
những đơn đặt hàng cho sản phẩm chính nó trong suốt tuần đầu tiên của tháng và
một cách tương đối một ít nhu cầu sau này trong tháng. Đây được gọi là những
khủng hoảng của MRP (MRP jitters) hoặc hiện tượng gậy đánh khúc côn cầu
(hockey stick) (đồ thị của nhu cầu trong suốt tháng nhìn giống như một chuỗi của
những gậy đánh khúc côn cầu, một phần được chia bằng phẳng và sau đó như một
que nhọn hướng lên).
Trang 10
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Order Batching (Đơn đặt hàng theo gói/lô)
Chúng ta tranh cãi rằng những nhà bán lẻ có lẽ ao ước đặt hàng hàng tuần thay vì
hàng ngày để tránh mắc phải những chi phí đặt hàng quá lớn. Tiết kiệm những chi
phí đặt hàng cũng được thực hiện bởi order batching : mỗi nhà bán lẻ đặt hàng vì
thế cho nên mỗi đơn đặt hàng là một bội số nguyên của một vài kích thước lô. Ví
dụ, bây giờ chúng ta xem xét một tình huống mà mỗi nhà bán lẻ sử dụng một kích
thước lô của 15 đơn vị. Kích thước lô này đại diện một trường hợp hoặc một pa-lét
(pallet) hoặc một xe tải chứa đầy hàng. Chúng ta gọi nó là một pallet. Bằng cách
đặt hàng chỉ tăng 15 đơn vị, nghĩa là, trong số lượng pallet, nhà bán lẻ tạo điều
kiện thuận lợi cho di chuyển sản phẩm chung quanh nhà kho chứa hàng hóa và
đưa sản phẩm lên trên những chiếc xe tải. Nhà bán lẻ quyết định như thế nào khi
đặt hàng một pallet ? Một quy luật tự nhiên là đặt hàng một lô bất cứ khi nào nhu
cầu tăng lên nhờ tích lũy từ khi đơn đặt hàng cuối cùng vượt quá kích thước lô.
Bởi vậy, trong ví dụ này, mỗi nhu cầu thứ 15 gây ra một đơn đặt hàng cho một
pallet. Dĩ nhiên, đặt hàng trong những lô tiết kiệm được số lượng những đơn đặt
hàng nhà bán lẻ phải tạo ra :
Số lượng những thời kỳ trung Kích thước lô
=
bình giữa những đơn đặt hàng Trung bình cộng nhu cầu mỗi thời kỳ
Trong tình huống này nhà bán lẻ đặt hàng ở mức trung bình mỗi 15/1=15 thời kỳ.
Hình vẽ 14.6 cho thấy một kết quả mô phỏng với đơn đặt hàng theo gói/lô. Vì
những nhà bán lẻ chỉ đặt hàng trong số lượng pallet. Nhu cầu của nhà cung ứng
bằng một bội số của 15 : một vài ngày không có đặt hàng, vào hầu hết những ngày
một pallet được đặt hàng bởi một vài người bán lẻ, vào một vài ngày lên đến một
số lượng tối đa năm pallet được đặt hàng.
Chúng ta quan sát lại hiệu ứng bullwhip : tính biến thiên của nhu cầu nhà cung
ứng lớn hơn nhiều tính biến thiên của nhu cầu người tiêu dùng. Cụ thể, nhu cầu
nhà cung ứng có một hệ số biến thiên bằng 0.87 trong ví dụ này, mà trái ngược
Trang 11
GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Hình vẽ 14.6 : Mô
phỏng nhu cầu 70
khách hàng hàng
ngày (đường liên
60
tục) và nhu cầu
nhà cung ứng
(những điểm 50
tròn) khi những
nhà bán lẻ đặt 40
hàng theo lô 15
đơn vị. Units 30
Mỗi nhu cầu thứ
15, một nhà bán lẻ
20
đặt hàng một lô từ
nhà cung ứng chứa
15 đơn vị. 10
0
Time (eac h pe riod equa ls one d ay)
với 0.19 hệ số biến thiên cho nhu cầu người tiêu dùng. Như vậy, chúng ta nhận ra
một nguyên nhân thứ hai của hiệu ứng bullwhip, order batching : hiệu ứng
bullwhip xuất hiện khi những nhà bán lẻ đặt hàng trong những lô mà chứa đựng
nhiều hơn một đơn vị (Ví dụ, số lượng pallet hoặc số lượng xe tải chở đầy hàng).
Hơn nữa, tổng số đơn đặt hàng của những nhà bán lẻ ở mức trung bình bằng với
nhu cầu người tiêu dùng ở mức trung bình, nhưng không có tính biến thiên của
những đơn đặt hàng của họ. Xảy ra hiện tượng này vì, phụ thuộc vào số lượng lô
theo yêu cầu, số lượng đơn đặt hàng của nhà bán lẻ trong một thời kỳ thường
thường không giống với nhu cầu người bán lẻ trong thời kỳ đó : nó có khuynh
hướng hoặc lớn hơn hoặc nhỏ hơn nhu cầu người tiêu dùng. Nói cách khác, số
lượng lô theo yêu cầu thúc đẩy nhà bán lẻ đặt hàng theo