Tài liệu này nghiên cứu mô hình biến đổi và tính hiệu quả của sự vô hiệu hóa trong các thị
trường mới nổi khi các nước đó tự do hóa thị trườngvà hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thông qua
các quốc gia và các thời kỳ, các tác giả đã ước lượng xu hướng biên để vô hiệu hóa sự tích lũy của tài
sản nước ngoài có được từ dòng thu của cán cân thanh toán ròng. Kết quả đã cho thấy quy mô của sự
vô hiệu hóa dòng thu dự trữ ngoại hối tăng lên trong những năm gần đây với các mức độ khác nhau ở
Châu Á cũng như ở các nước Châu Mỹ Latinh, phù hợp với sự lo lắng ngày càng lớn về ảnh hưởng
của lạm phát tiềm ẩn tới các dòng thu dự trữ. Thêm vào đó, bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự vô hiệu
hóa phụ thuộc vào các thành phần của dòng thu từ cán cân thanh toán.
41 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1809 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài nghiên cứu: chính sách vô hiệu hóa, chính sách tiền tệ và hội nhập tài chính toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
BÀI NGHIÊN CỨU:
CHÍNH SÁCH VÔ HIỆU HÓA, CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ VÀ HỘI NHẬP TÀI CHÍNH TOÀN
CẦU
Tác giả: Joshua Aizenman và Reuven Glick
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
LỚP: NH Đêm 2 – Khóa 22 – Nhóm 3
Danh sách nhóm:
Nguyễn Lê Bằng
Đoàn Thị Hoàng Giang
Phan Phúc Thuần
TP. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2013
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 1
Mục lục
Tóm tắt (Abstract) ................................................................................................................ 2
1. Giới thiệu ........................................................................................................................... 2
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ( Literature review ) ............................ 4
2.1. Lý thuyết bộ 3 bất khả thi đến sự vô hiệu hoá: ................................................................ 4
2.2. Lạm phát .......................................................................................................................... 6
2.3. Thành phần dòng thu cán cân thanh toán ......................................................................... 7
3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 9
4. Nội dung và kết quả nghiên cứu ...................................................................................... 11
4.1. Tích luỹ dữ trữ và phản ứng vô hiệu hoá ......................................................................... 11
4.2. Đo lường phản ứng vô hiệu hoá ....................................................................................... 12
4.3. Mối quan hệ giữa vô hiệu hoá và lạm phát ...................................................................... 22
4.4. Mối quan hệ giữa vô hiệu hoá và thành phần của dòng thu cán cân thanh toán .............. 26
4.5. Chi phí, lợi ích và sự ổn định/ bền vững của chính sách vô hiệu hoá .............................. 31
5. Kết luận .............................................................................................................................. 34
Phụ lục .................................................................................................................................... 35
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 2
Điểm sự kiện Kinh tế quốc tế, 17(4), 777–801, 2009
DOI:10.1111/j.1467-9396.2009.00848.x
CHÍNH SÁCH VÔ HIỆU HÓA, CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ
HỘI NHẬP TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
Tác giả: Joshua Aizenman và Reuven Glick∗
Tóm tắt ( Abstract )
Tài liệu này nghiên cứu mô hình biến đổi và tính hiệu quả của sự vô hiệu hóa trong các thị
trường mới nổi khi các nước đó tự do hóa thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thông qua
các quốc gia và các thời kỳ, các tác giả đã ước lượng xu hướng biên để vô hiệu hóa sự tích lũy của tài
sản nước ngoài có được từ dòng thu của cán cân thanh toán ròng. Kết quả đã cho thấy quy mô của sự
vô hiệu hóa dòng thu dự trữ ngoại hối tăng lên trong những năm gần đây với các mức độ khác nhau ở
Châu Á cũng như ở các nước Châu Mỹ Latinh, phù hợp với sự lo lắng ngày càng lớn về ảnh hưởng
của lạm phát tiềm ẩn tới các dòng thu dự trữ. Thêm vào đó, bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự vô hiệu
hóa phụ thuộc vào các thành phần của dòng thu từ cán cân thanh toán.
1. Giới thiệu :
Trong những năm cuối 1980 và đầu những năm 1990, các thị trường mới nổi đi theo sự tự do
hóa và mở cửa tài chính. Với sự cố gắng duy trì sự ổn định về tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ độc
lập ở một mức độ nào đó, nhưng một số nước vẫn phải trải qua vài cuộc khủng hoảng tài chính. Sau
hậu quả của các cuộc khủng hoảng này, các thị trường mới nổi đã áp dụng một mô hình mới với chính
sách tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn nhưng vẫn còn chịu sự quản lý, song song với việc tiếp tục hội nhập
tài chính và độc lập tiền tệ trong nước ở một mức độ nào đó. Sự tích lũy dự trữ ngoại hối đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc tăng cường tính ổn định của mô hình này. Sự quan tâm về chi phí của
∗ Aizenman: Khoa kinh tế học, Đại học California ở Santa Cruz, E2, Santa Cruz, CA 95064, USA. ĐT: (1) 831-459-4791;
E-mail: jaizen@ucsc.edu. Glick: Phòng Nghiên cứu về kinh tế, Ngân hàng dự trữ liên bang San Francisco, 101 đường
Market, San Francisco, CA 96105, USA. ĐT: (415) 974-3184; Fax: (415) 974-2168; E-mail: reuven.glick@sf.frb.org.
Chúng tôi xin cám ơn Michael Hutchison, Menzie Chinn, trọng tài ẩn danh, thành phần tham dự Hội nghị Kinh tế học quốc
tế tại trung tâm điểm sự kiện kinh tế quốc tế/ về “Thanh khoản toàn cầu” (Đại học California ở Santa Cruz, 11–12 tháng
04 năm 2008), cũng như các đại biểu Hội nghị Nghiên cứu – Viện quản trị hàng năm đầu tiên về “Dòng vốn và định giá tài
sản: Góc nhìn quốc tế của Rủi ro” (Đại học quốc gia Singapore, 6–7 tháng 7 năm 2007) về những phê bình hữu ích. Chúng
tôi cũng xin cám ơn Michael Simmons và Andrew Cohn đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Những quan
điểm được trình bày dưới đây không đại diện cho những điều đó của Ngân hàng dự trữ liên bang San Francisco hay Ban
thống đốc của Hệ thống dự trữ liên bang.
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 3
việc duy trì ổn định tiền tệ với chính sách hỗn hợp mới này cho thấy sự cần thiết cần phải tích lũy dự
trữ ngoại hối với việc vô hiệu hóa ngày càng gia tăng. Mối e ngại về chi phí cơ hội của việc tích lũy dự
trữ và sự bóp méo chi phí tài chính công của việc vô hiệu hóa đã làm phát sinh nhiều câu hỏi về khả
năng tồn tại lâu dài của chính sách hỗn hợp mới này, đặc biệt là hiệu quả của sự vô hiệu hóa
Các nghiên cứu gần đây về sự phát triển ở các thị trường mới nổi đã phân tích nhiều khía cạnh
khác nhau, như tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính. Trong
bài viết này, tác giả tập trung quan tâm về quy mô của sự vô hiệu hóa bằng cách ước lượng xu hướng
biên để vô hiệu hóa sự tích lũy tài sản nước ngoài qua các thời kỳ thông qua các quốc gia được chọn ở
Châu Á và Châu Mỹ Latinh. Kết quả của bài nghiên cứu đã khẳng định rằng sự tích lũy ngày càng
nhiều của dự trữ ngoại hối trong những năm gần đây có liên quan tới sự vô hiệu hóa ngày càng mạnh
mẽ thông qua các nước đang phát triển ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh. Đặc biệt tác giả đã chỉ ra rằng
có một sự gia tăng đáng kể của hệ số vô hiệu hóa trong những năm gần đây. Vì vậy các chính sách tích
lũy dự trữ ngoại hối và vô hiệu hóa, tác động của lạm phát tiềm ẩn đã bổ trợ cho nhau trong những
năm gần đây. Thêm vào đó, tác giả nhận ra rằng sự vô hiệu hóa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) ít hơn thặng dư tài khoản vãng lai và các dòng vốn không phải FDI, đã đặt ra mối nghi ngại sự
bất ổn tiền tệ phụ thuộc vào các thành phần trong dòng thu của cán cân thanh toán.
Bài nghiên cứu cũng tranh luận về lợi ích và chi phí của sự vô hiệu hóa. Đối với nhiều quốc
gia, chi phí phát sinh của việc vô hiệu hóa ít hơn các lợi ích có được từ việc ổn định tiền tệ và tích lũy
dự trữ.Tuy nhiên, có bằng chứng chứng tỏ rằng lợi ích có liên quan đến Trung Quốc và các nước khác
đã giảm trong những quý gần đây. Điều này ngụ ý về những hạn chế của việc duy trì tính bền vững
của cấu trúc chính sách mới trong thời gian gần.
Cuối cùng các tác giả đã phác thảo một mô hình (được trình bày trong phần phụ lục) giải thích
khả năng vô hiệu hóa phụ thuộc vào khả năng thay thế không hoàn toàn của các tài sản trên thế giới,
nơi mà chi phí thương mại của các tài sản này biến đổi một cách hệ thống thông qua các tác nhân (bởi
vì các ảnh hưởng của sự cân bằng hợp lý) và thông qua các lớp tài sản (bởi vì tính chất thanh khoản và
rủi ro khác nhau).
Tác giả cũng cho thấy rằng các chính sách thúc đẩy mạnh hơn các áp chế tài chính trong nước cắt
giảm chi phí vô hiệu hóa. Quy mô một quốc gia thực hiện vô hiệu hóa phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng
chấp nhận áp chế tài chính và bóp méo kinh tế.
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 4
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ( Literature review ) :
2.1. Lý thuyết bộ 3 bất khả thi đến sự vô hiệu hoá :
Một bài học lớn của thập kỷ vừa qua là các rủi ro của sự kết hợp giữa hội nhập tài chính quốc
tế với chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Mỗi cuộc khủng hoảng lớn liên quan đến tài chinh quốc tế từ năm
1994 đều có sự liên quan đến chế độ tỷ giá hối đoái cố định hoặc neo tỷ giá, Mexico vào năm 1994,
Thái Lan, Indonesia, và Hàn Quốc vào năm 1997, Nga và Brazil vào năm 1998, Argentina và Thổ Nhĩ
Kỳ vào năm 2000. Cùng lúc đó, các quốc gia không có chế độ tỷ giá cố định, trong đó Israel, Mexico,
và Nam Phi vào năm 1998, đã tránh được các cuộc khủng hoảng cùng loại đã ảnh hưởng đến các thị
trường mới nổi có chế độ tỷ giá cố định1. Kết quả là, nhiều thị trường mới nổi đã thông qua chính sách
tỷ giá hối đoái có quản lý, trong khi vẫn cố gắng duy trì một mức độ kiểm soát tiền tệ trong nước cùng
với tăng cường hội nhập tài chính. Họ đã thực hiện được điều này với một chính sách kết hợp tích lũy
dự trữ lớn và vô hiệu hoá.
Việc áp dụng khuôn khổ lý thuyết bộ ba bất khả - the Trilemma, thì hữu ích trong việc giải
thích sự thay đổi cấu trúc chính sách tiền tệ bởi các nước đang phát triển. Lý thuyết bộ ba bất khả thi
nói rằng một quốc gia đồng thời có thể chọn bất kỳ hai, nhưng không phải tất cả, trong ba mục tiêu sau
đây: độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, và hội nhập tài chính (xem Obstfeld et al., 2005, để thảo luận thêm
và tham khảo về lý thuyết bộ ba bất khả thi).
Với thị trường vốn đóng cửa, một quốc gia có thể có quyền kiểm soát chính sách tiền tệ và tỷ
giá hối đoái cố định, nhưng không hội nhập tài chính. Đây là sự lựa chọn chính sách ưa thích của hầu
hết các nước đang phát triển vào giữa đến cuối thập niên 1980, khi họ duy trì một sự kết hợp giữa ổn
định tỷ giá và độc lập tiền tệ, với các tài khoản vốn gần như đóng cửa.
Trong những năm cuối 1980 và đầu những năm 1990 các nước như Mexico, Hàn Quốc, và một
số nền kinh tế khác ở châu Á, đi theo con đường phát triển tự do hóa và mở cửa tài chính. Tuy nhiên,
khi họ mở cửa tài chính, họ thấy rằng các mục tiêu của hội nhập tài chính lớn hơn, ổn định tỷ giá và
độc lập tiền tệ đã đồng thời không thể đạt được. Các mục tiêu chính sách không phù hợp đã dẫn đến
các cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, tại Mexico trong thời gian 1994-1995 và ở Đông Á
trong thời gian 1997-19982.
1 Thông điệp này đã được truyền tải trong những nghiên cứu nổi tiếng của Obstfeld và Rogoff (1995) và Fischer (2001).
Những nghiên cứu liên quan đã xây dựng những khả năng mà tỷ giá hối đoái ổn định có thể tạo ra “cái bẫy” trong khu vực
hội nhập tài chính toàn cầu, nhờ đó chế độ ban đầu mang lại những lợi ích trong sự tin tưởng chống lạm phát, nhưng rút
cục những kết quả trong sự đi ra từ sự ổn định gây ra bởi cú sốc bất lợi đủ lớn thực sự mà tạo ra những thiệt hại phúc lợi
lớn cho nến kinh tế (xem Eichengreen,1999; Frankel, 1999; Edwards and Levy-Yeyati, 2005; Aizenman and Glick,
2008a).
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 5
Những cuộc khủng hoảng đã khẳng định sự thỏa hiệp cân bằng với lý thuyết bộ ba bất khả thi:
một quốc gia chọn tham gia hội nhập tài chính ở mức cao phải từ bỏ sự ổn định tỷ giá nếu muốn bảo
tồn mức độ độc lập tiền tệ.Từ những sai lầm dẫn tới các cuộc khủng hoảng xảy ra, sau đó Mexico, Hàn
Quốc, và các nước khác đã chọn một cấu trúc chính sách mới di chuyển hướng vào bên trong của hình
tam giác bộ ba bất khả thi. Cấu trúc ba nhân tố mới dường như liên quan đến hội nhập tài chính sâu
hơn và tỷ giá hối đoái linh hoạt có quản lý hơn, hơn là cân bằng giữa sự ổn định tỷ giá hối đoái với
việc chu chuyển vốn trong khi duy trì một mức độ độc lập tiền tệ3. Trong những năm đầu 1990,
Argentina đã thông qua một cấu trúc khác của bộ ba bất khả thi liên quan đến tính ổn định của tỷ giá
hối đoái, được hỗ trợ bởi một chuẩn tiền tệ, và hội nhập tài chính hoàn toàn. Argentina cũng đã trải
qua một cuộc khủng hoảng đầu những năm 2000 khi từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập không còn khả
thi.
Sau khủng hoảng, nhiều thị trường mới nổi đã chọn một cấu trúc chính sách liên quan đến tỷ
giá hối đoái linh hoạt hơn, độc lập tiền tệ trong nước, và tăng cường hội nhập tài chính. Nhưng họ vẫn
còn can thiệp ở một mức độ lớn trong việc quản lý tỷ giá hối đoái. Vì vậy, khi đối mặt với áp lực đánh
giá cao đồng tiền, họ đã thực hiện tích lũy dự trữ và vô hiệu hoá. Trung Quốc là một minh chứng tiêu
biểu cho chính sách hỗn hợp này, cho phép sự hội nhập tài chính sâu hơn trong thực tế, và vào giữa
năm 2005 áp dụng tỷ giá linh hoạt có quản lý, trong khi vẫn tích luỹ và vô hiệu hoá các dòng thu dự
trữ ngoại hối khổng lồ.
Phân tích kinh tế cho thấy sự thay đổi cấu trúc trong các mô hình tích luỹ dự trữ của các nước
đang phát triển (xem Aizenman và Marion, 2003; Aizenman và Lee, 2008; Cheung và Ito, 2007). Một
sự thay đổi xảy ra trong những năm đầu 1990, được phản ánh trong sự tăng tỉ lệ dự trữ ngoại hối/GDP,
một xu hướng tăng vọt ngay sau khủng hoảng Đông Á 1997-1998, nhưng giảm xuống vào năm 2000.
Một sự thay đổi cấu trúc thứ hai dường như đã diễn ra trong những năm đầu 2000, định hướng chủ yếu
do sự gia tăng chưa từng có trong tích luỹ dự trữ ngoại hối của Trung Quốc.
2 Danh sách các quốc gia với những kinh nghiệm tương tự ngày càng dài thêm (ví dụ: Russia, Brazil, và các nước
khác). Ở đây chúng ta tham khảo Mexico và các nước Đông Nam Á hầu như bởi thời điểm khủng hoảng của các nước đó,
mỗi quốc gia là đầu tiên trong vùng tương ứng trải qua đoạn “dừng đột ngột”, được sắp xếp bởi sự đảo ngược đột ngột của
những dòng tài chính ngắn hạn (“tiền nóng”).
3 Lưu ý rằng sự ổn định tỷ giá hối đoái có thể duy trì mục tiêu chính sách gợi mở. Sự thả nổi được quản lý chặt cho
phép các quốc gia ổn định tỷ giá hối đoái, trong khi giữ lại sự lựa chọn điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong sự hiện diện của
những cú sốc lớn mà không trải qua sự cân bằng khủng khoảng thanh toán. Tương tự, những quốc gia có thể chọn tỷ giá
hối đoái cố định, mặc dù tại mức độc lập tiền tệ ít hơn (xem những kinh nghiệm của Estonia, Hong Kong và các nước
khác). Vì thế, trên 1 dòng với “Bộ ba bất khả thi” (Trilemma), xu hướng hướng đến sự hòa nhập tài chính toàn cầu lớn hơn
bởi các nước đang phát triển hàm ý rằng họ phải đánh đổi những lợi ích của hội nhập tài chính với cái giá của sự độc lập
chính sách độc lập giảm và/hoặc tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn.
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 6
Sự tích luỹ dự trữ ngoại hối lớn có thể là do một số yếu tố. Đầu tiên, một số nước đã giành dự
trữ để đáp ứng nhu cầu phòng ngừa. Dự trữ cung cấp bảo hiểm cho chính quốc gia đó khi có sự dừng
lại đột ngột của luồng vốn nước ngoài chuyển vào trong nước, qua đó bù đắp rủi ro khi hội nhập tài
chính ở mức sâu hơn. Thứ hai, dự trữ có thể được sử dụng để giảm nhẹ tác động của các cú sốc thương
mại trên tỷ giá hối đoái thực tế và xuất khẩu của một quốc gia, điều hoà các điều chỉnh tài khoản vãng
lai. Thêm vào đó, chúng như là một khoản bảo hiểm ngầm, cho phép các nước tránh phụ thuộc vào
Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức tài chính quốc tế khác, vv,. Cuối
cùng, tích luỹ dự trữ có thể xuất hiện như là một sản phẩm phụ của việc quản lý tỷ giá hối đoái để thúc
đẩy xuất khẩu bằng cách đánh giá thấp đồng nội tệ4.
2.2. Lạm phát :
Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 bắt đầu từ tháng 7/1997 ở Thái Lan rồi sau đó ảnh hưởng
đến các thị trường chứng khoán, tiền tệ và giá cả của những tài sản khác ở một số nước trong khu vực.
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện chính sách bộ ba bất khả thi. Họ
vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa
tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên
1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các NHTW Đông Nam Á đã thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng. Các quỹ dữ trữ tiền tệ được sử dụng để thu hẹp tiền tệ trong nước, cơ sở
tiền tệ trong nước mở rộng mà không có một sự gia tăng tương ứng trong sản xuất: quá nhiều tiền
đuổi theo quá ít hàng hóa và dịch vụ. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát.
Biện pháp mà các quốc gia này thường áp dụng là chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy)
những tác động của việc dự trữ ngoại tệ lên cung tiền nội tệ, nhằm ngăn chặn sự phát triển thông
thường của tiền tệ và ngăn chặn sự phát triển của lạm phát ( xem Jang-Yung Lee, 1997. Steriling
Capital Inflows )
Như vậy, lạm phát thường có tương quan phủ định với mức độ phản ứng vô hiệu hóa (khi thực
hiện vô hiệu hóa thành công thì sẽ kìm hãm được lạm phát).
4 Cho những lý do này, những quốc gia duy trì tỉ giá hối đoái cố định, như Trung Quốc cho đến giữa năm 2005, đã
chọn củng cố sự ổn định của họ bằng cách tích lũy 1 số khá lớn dự trữ ngoại hối
Tiểu luận TCQT GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm thực hiện : Nhóm 3- NH đêm 2- K22 7
2.3. Thành phần dòng thu cán cân thanh toán :
Như ta đã biết, sự vô hiệu hoá chính là một hành động của chính phủ, tác động lên thị trường
ngoại hối,nhằm làm cho đồng tiền nước mình tăng hoặc giảm giá với mục đích là ổn định tỷ giá. Khi tỉ
giá được thả nổi, cán cân thanh toán gây ra sự biến đổi về tỉ giá. Mà khi có sự xáo trộn tác động đến tỷ
giá, thì chính phủ sẽ thực hiện biện pháp vô hiệu hoá nhắm ổn định tỉ giá. Như vậy, sự vô hiệu hoá có
mối liên hệ chặt chẽ với cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán = Dòng tiền “lạnh” ( FDI ) + Dòng tiền “ nóng “ ( non- FDI ) + Tài khoản vãng
lai
- Dòng tiền “lạnh “ (FDI):
Là dòng vốn mà các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào một quốc gia,
và các nhà đầu tư này có quyền kiểm soát rất cao với việc sử dụng nguồn vốn của mình.
Đây là một nguồn vốn mang tính chất nền tảng, ổn định và bền vững, đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế của một quốc gia. Tuy nhiên, vì là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên Chính
phủ không thể phân bổ sao cho hợp lý với chính sách phát triển toàn diện đất nước, các nhà đầu tư
nước ngoài thường đổ dòng vốn này vào những khu vực đã phát triển mạnh làm cho sự phân hóa về
khu vực kinh tế giàu nghèo càng rõ rệt hơn; ngoài ra cũng thường có những tranh chấp về vấn đề nhân
công trong khu vực đầu tư. Tuy FDI là một nguồn vốn quan trọng trong phát triển lâu dài và bền vững
nhưng nếu một quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn này sẽ rất dễ rơi vào trạng thái bấp bênh
khi có sự rút vốn đột ngột.
- Dòng Phi FDI hay còn gọi là dòng tiền “nóng”:
Khác với dòng vốn FDI, các nhà đầu tư đầu tư trực tiếp vào các dự án do chính họ lựa chọn, dòng
vốn phi FDI lại được đầu tư chủ yếu thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác; hoặc thông qua các định chế tài chính trung gian như quỹ đầu tư, để tham gia đầu tư vào các
công ty cổ phần đã hoặc chưa niêm yết hoặc doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hóa. Không có định
nghĩa chính thức cho “tiền nóng”, nhưng khái niệm thông thường nhất được dùng trong thị trường tài
chính là để đề cập đến dòng chảy vốn từ một nước đến một nước khác nhằm hưởng lợi nhuận ngắn
hạn trên sự chênh lệch lãi suất và tỷ giá hối đoái. Những dòng vốn đầu cơ này được gọi là “tiền nóng”
bởi vì chúng có thể chu chuyển ra vào thị trường rất nhanh, có khả năng dẫn đến tình trạng thị trường
không ổn định. Nhiều nhà kinh tế cho rằng sự chảy ra nhanh chóng của “tiền nóng” đầu tiên từ Thái
Lan và sau đó từ các nền kinh tế Đông Nam Á là nhân tố góp phần đáng kể đến sự khởi đầu và tính
khắc nghiệt của khủng hoả