Bài nghiên cứu Sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong các thị trường mới nổi

Bài nghiên cứu về sự truyền dẫn của tỷ giá đến giá cả trên 12 thị trường mới nổi tại Châu Á, Mỹ Latinh và các nước Trung và Đông Âu. Kết quả nghiên cứu dựa trên việc sử dụng ba mô hình hồi quy tiêu chuẩn (mô hình vecto tự hồi quy), một phần dựa trên sự hiểu biết về ERPT trong giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các thị trường mới nổi luôn cao hơn thị trường ở các nước phát triển.Ở thị trường mới nổi thì tỷ lệ lạm phát ít biến động (hầu hết ở các nước Châu Á), sự truyền dẫn của giá nhập khẩu và giá tiêu dùng thường thấp và mức độ không giống nhau ở các nền kinh tế phát triển.Nghiên cứu này rất thiết thực để kiểm chứng mối quan hệ giữa ERPT và lạm phát. Trong giả thuyết của Taylor’s loại trừ 2 nước Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi mẫu nghiên cứu. Cuối cùng, kiểm định mối quan hệ giữa mức độ mở cửa và ERPT dựa trên một lý thuyết chưa có bằng chứng chứng thực để khẳng định rõ ràng.

pdf29 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài nghiên cứu Sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong các thị trường mới nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TPHCM VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Bài nghiên cứu Sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong các thị trường mới nổi GVHD Năm 2013 MỤC LỤC Tóm lược Bài nghiên cứu về sự truyền dẫn của tỷ giá đến giá cả trên 12 thị trường mới nổi tại Châu Á, Mỹ Latinh và các nước Trung và Đông Âu. Kết quả nghiên cứu dựa trên việc sử dụng ba mô hình hồi quy tiêu chuẩn (mô hình vecto tự hồi quy), một phần dựa trên sự hiểu biết về ERPT trong giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các thị trường mới nổi luôn cao hơn thị trường ở các nước phát triển.Ở thị trường mới nổi thì tỷ lệ lạm phát ít biến động (hầu hết ở các nước Châu Á), sự truyền dẫn của giá nhập khẩu và giá tiêu dùng thường thấp và mức độ không giống nhau ở các nền kinh tế phát triển.Nghiên cứu này rất thiết thực để kiểm chứng mối quan hệ giữa ERPT và lạm phát. Trong giả thuyết của Taylor’s loại trừ 2 nước Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi mẫu nghiên cứu. Cuối cùng, kiểm định mối quan hệ giữa mức độ mở cửa và ERPT dựa trên một lý thuyết chưa có bằng chứng chứng thực để khẳng định rõ ràng. Tóm tắt lý thuyết Hiểu biết về tác động của biến động tỷ giá đến giá cả là rất quan trọng để có thể đánh giá được mức độ phù hợp của các chính sách tiền tệ với biến động của thị trường tiền tệ. Nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng biến động tỷ giá hối đoái và giá cả không biến động theo tỷ lệ tương đương 1-1 trong ngắn hạn và trung hạn. Một lý thuyết đã phát triển trong ba thập kỷ qua, các nghiên cứu đã cung cấp những giải thích khác nhau rằng tại sao sự truyền dẫn của tỷ giá (EFPT) lên giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là không hoàn toàn.Phân tích thực nghiệm cũng đã đưa ra bằng chứng về sự khác nhau đáng kể của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia. Một tranh luận lớn về vấn đề này đã được đề xuất bởi Taylor (2000), người đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá do biến động của tỷ giá phụ thuộc rất nhiều vào lạm phát. Bài viết khảo sát mức độ ERPT đến giá cả trong 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Để đạt được điều này, chúng tôi sử dụng một mô hình đã được phát triển cho các nước tiên tiến do McCarthy (2000) và được ứng dụng bởi Hahn (2003) cho khu vực đồng Euro. Chúng tôi ước tính mô hình vector tự hồi quy, trong đó bao gồm các trường hợp cơ bản như các biến đầu ra, tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng, mức lãi suất ngắn hạn và giá dầu. Cách tiếp cận véc tơ hồi quy này cho phép khả năng phát sinh biến nội sinh giữa các biến nghiên cứu.Những cú sốc tỷ giá hối đoái được xác định bằng cách đưa biến lãi suất vào một cách phù hợp và áp dụng một chương trình xác định đệ quy.Việc đưa các biến vào có thể phát sinh vấn đề, chúng tôi tiến hành phân tích độ nhạy bằng sự thay thế cách sắp xếp khác nhau của các biến. Để so sánh, chúng tôi cũng ước tính mô hình theo một chuẩn mực riêng cho các nền kinh tế phát triển, cụ thể là khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật Bản. Kết quả của chúng tôi khẳng định rằng tác động của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái giảm dọc theo chuỗi giá, cụ thể là giá tiêu dùng thấp hơn giá nhập khẩu. Ngoài ra còn có bằng chứng về ERPT thấp ở các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là trong trường hợp giá tiêu dùng của Mỹ và Nhật Bản. Phù hợp với các nghiên cứu trước ERPT tác động đến giá tiêu dùng và nhập khẩu trong khu vực đồng Euro có phần cao hơn so với ở Mỹ. Phân tích của chúng tôi cũng phần nào đã phá vỡ những kiến thức thông thường cho rằng ERPT ở các quốc gia "mới nổi" thường cao hơn các quốc gia "phát triển". Đối với các nền kinh tế mới nổi với chỉ số lạm phát ở mức một con số (đặc biệt là các nước châu Á trong mẫu của chúng tôi), ERPT là thấp và mức độ phổ biến không giống trong nền kinh tế phát triển.Tổng quát hơn, bài nghiên cứu cung cấp những bằng chứng xác thực cho mối quan hệ giữa mức độ của ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor. Kết quả này trở nên rõ ràng chỉ sau khi loại trừ hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ), do khó khăn trong việc ước lượng cùng với sự ước lượng về kinh tế vĩ mô đã diễn ra vượt tầm kiểm soát trong phạm vi nghiên cứu ở hai nước này. Cuối cùng, bài nghiên cứu cũng tìm ra được sự liên kết chặt chẽ giữa mức độ mở cửa nhập khẩu của một nền kinh tế và ERPT, trong khi về mặt lý thuyết vấn đề này chưa được nghiên cứu nhiều. 1. Giới thiệu Trong suốt 2 thấp kỷ qua, lý thuyết về sự truyền dẫn của tỷ giá trên thị trường mới nổi (ERPT) đã được phát triển.Bắt đầu từ những điểm khác nhau, các nghiên cứu kiểm định vai trò của ERPT trong các nền kinh tế nhỏ và lớn. Nghiên cứu tiến hành đối với trường hợp của các nước phát triển bao gồm Anderton (2003), Campa và Goldberg (2004), Campa et al. (2005), Gagnon và Ihrig (2004), Hahn (2003), Ihrig et al. (2006) và McCarthy (2000). Ngoài ra cũng có một số lý thuyết nghiên cứu đối với nền kinh tế trên thị trường mới nổi, trong đó so sánh giữa các quốc gia như trong Choudhri và Hakura (2006), Frankel et al. (2005) và Mihaljek et al. (2000). Trong nền kinh tế giả định được đơn giản hóa, nghĩa là giá cả hàng hoá giao dịch giữa các quốc gia là cùng một loại tiền và chỉ có một mức giá, tức là điều kiện ngang bằng sức mua (PPP). Tuy nhiên, giả thiết này chỉ áp dụng trong trường hợp các mẫu nhỏ và thời gian từ ngắn hạn đến trung hạn. Trên cơ sở từ giả thuyết này, các lý thuyết phát triển trong hai thập niên qua đã cung cấp nhiều nguyên nhân khác nhau để giải thích tại sao ERPT là không hoàn toàn. Trong bài báo của ông, Dornbusch (1987) giải thích sự không hoàn toàn được phát sinh từ các công ty hoạt động trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và việc điều chỉnh tăng giá của họ (và không chỉ có giá) là để phản ứng với một cú sốc tỷ giá hối đoái. Burstein et al. (2003) nhấn mạnh vai trò của yếu tố đầu vào (phi thương mại) trong nước trong chuỗi phân phối hàng hóa. Thay vì thế thì Burstein và cộng sự (2005) chỉ ra vấn đề đo lường trong chỉ số CPI, mà bỏ qua việc chất lượng của hàng hóa giao dịch có thể tác động rất lớn đến việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Một nghiên cứu khác lại nhấn mạnh hơn vai trò của các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, bởi sự ảnh hưởng của chính sách phần nào làm ảnh hưởng đến sự tác động của thay đổi tỷ giá hối đoái lên giá (Gagnon và Ihrig, 2004). Devereux và Engel (2001) và Bacchetta và van Wincoop (2003) khám phá vai trò của việc định giá đồng nội tệ trong việc giảm mức độ ERPT. Những bằng chứng được đưa ra từ những cách tiếp cận lý thuyết khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm cho cả nền kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi đã tìm thấy bằng chứng của ERPT không hoàn toàn.Những nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, từ những gì đã chứng minh ta tìm thấy được những yếu tố cơ bản nhất về sự truyền dẫn.Taylor (2000) đã đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá đối với biến động tỷ giá phụ thuộc rất nhiều vào lạm phát.Mức độ tác động của lạm phát đến sự truyền dẫn còn tuỳ thuộc vào mức độ và thời gian của lạm phát. Liên kết sau có thể được thể hiện như sau: Lạm phát dai dẳng, thì sự biến động của tỷ giá chỉ là nhất thời và nhiều công ty có thể khắc phục điều này thông qua việc điều chỉnh giá. Các bằng chứng từ các nghiên cứu khác nhau xuất hiện đã hỗ trợ nhiều cho giả thuyết Taylor. Tuy nhiên, mối quan hệ tích cực giữa sự truyền dẫn và lạm phát dường như mạnh mẽ hơn khi thị trường mới nổi được đưa vào mẫu nghiên cứu(đặc biệt là bằng chứng trong bảng dữ liệu của Choudhri và Hakura, 2006). Không có gì là ngạc nhiên, khi lập luận lý thuyết của Taylor trở nên có ý nghĩa hơn đối với tỷ lệ lạm phát cao. Một yếu tố quan trọng quyết định đến ERPT, là mức độ mở cửa thương mại của một quốc gia.Tại một quốc gia mở cửa thì sự tác động tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu làm cho CPI thay đổi nhiều hơn quốc gia có nền kinh tế khép kín. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Romer (1993) có nhiều bằng chứng thể hiện không có mối tương quan giữa lạm phát và sự mở cửa của một quốc gia. Điều này đưa đến một giả thuyết gián tiếp, theo đó sự mở cửa của một quốc gia tỷ lệ nghịch với lạm phát, còn trong giả thuyết của Taylor thì đó là yếu tố tác động đến mức độ của sự truyền dẫn. Các kênh trực tiếp và gián tiếp đi theo hướng ngược nhau và các dấu hiệu tổng thể của sự tương quan giữa sự truyền dẫn và sự mở cửa có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Bài báo đánh giá các kết quả từ các tài liệu, khám phá tầm quan trọng của ERPT và sự khác biệt giữa các quốc gia bằng cách ước tính vector của mô hình hồi quy (VAR) trên các thị trường mới nổi với nền kinh tế công nghiệp phát triển, tức là khu vực đồng Euro, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những nước nắm quyền kiểm soát trong khu vực công nghiệp phát triển này. Phương pháp tiếp cận đồng thời như trên được sử dụng có khả năng phát sinh những biến nội sinh tiềm năng và tương tự như vậy giữa các biến của lãi suất. Một cách đơn giản, nếu loại trừ phép tình đồng thời giống như thường xuyên được sử dụng trong các tiếp cận đơn giản, việc này sẽ thể hiện kết quả trên một đường xiên. Mô hình được lựa chọn như trên dường như cho phép chúng ta xác định được phương pháp ứng phó đối với những biên số ngoại sinh diễn ra theo thời gian thực hiện. Về mặt lý thuyết thì hầu như đến nay có thể đánh giá được dù là những công thức mang tính đơn giản hay hệ thống các công thức trong một quốc gia cụ thể, thậm chí xác định được những công thức đơn giản trong một nhóm các quốc gia (ví dụ như Choudhri và Hakura, 2006, và Mihaljek et al., 2000). Trong nghiên cứu này chúng tôi tiếp cận một số lượng đáng kể của các quốc gia thuộc thị trường mới nổi, cụ thể là khu vực châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp tương tự với ba nền kinh tế công nghiệp phát triển nhằm đảm bảo tính so sánh kết quả giữa các quốc gia. Bằng cách ước tính mỗi mô hình của một quốc gia trong thời gian dài nhất có thể, hơn nữa mục tiêu của chúng tôi là mức độ chính xác cao nhất có thể của sự truyền dẫn ước tính cho mỗi quốc gia. Về mặt này, một thành phần quan trọng cho việc phân tích là sự sáng tạo phù hợp, cơ sở dữ liệu so sánh cho mỗi quốc gia và chất lượng của thị trường mới nổi. Chúng tôi đáp ứng được yêu cầu vì lượng biến khảo sát cao, phong phú và đầy đủ để tránh sự chủ quan. Sau đó chúng tôi sử dụng kết quả để kiểm tra là ERPT tại các thị trường mới nổi cao hơn so với các nền kinh tế công nghiệp phát triển và điều tra mối tương quan của sự truyền dẫn của tỷ giá hối đoái dựa trên các mẫu nghiên cứu theo nghiên cứu của McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). ERPT trong thị trường mới nổi có cao hơn thị trường các nước công nghiệp hay không còn tuỳ thuộc vào cán cân thương mại và chế độ tỷ giá hối đoái của quốc gia đó. Một mức độ tương đối cao của sự truyền dẫn của tỷ giá hối đoái cho nước đang phát triển là vấn đề nghiên cứu trong tài liệu “fear of floating”. Nó cũng có vấn đề vì sự truyền dẫn thấp trong thị trường mới nổ,i có thể cho rằng tiềm lực của các công ty trong các quốc gia này sẽ tăng và không giảm theo như xu hướng toàn cầu hóa. Các quốc gia trong thị trường mới nổi, các đặc tính khác biệt đặc thù sẽ khó khăn trong việc ước tính độ tin cậy của ERPT. Một số quốc gia châu Á đã thường xuyên theo đuổi chính sách tích cực nhằm kiểm soát tỷ giá hối đoái. Các nước Trung và Đông Âu đã trải qua một biến đổi triệt để nền kinh tế trong những năm 1990. Cuối cùng, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước Mỹ Latinh trải qua sự bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh mẽ đặc trưng bởi tỷ lệ lạm phát rất cao và sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá và lãi suất. Kết quả của chúng tôi hỗ trợ việc đánh giá mức độ ERPT là tại các thị trường mới nổi cao hơn so với các nước phát triển (như Mỹ, khu vực đồng Euro và Nhật Bản).Cụ thể hơn, chúng ta thấy rằng trong nền kinh tế mới nổi lạm phát thấp (đặc biệt là các nền kinh tế châu Á) nên sự truyền dẫn đến giá tiêu dùng là khá nhỏ.Liên quan đến điều này, nghiên cứu này hỗ trợ cho giả thuyết của Taylor, việc tìm kiếm bằng chứng về mối tương quan thuận giữa sự truyền dẫn của tỷ giá hối đoái và lạm phát tại các thị trường mới nổi.Sự tương quan này có ý nghĩa thống kê trên tất cả các mô hình nhận dạng khác nhau được xem xét khi có hai nước được loại trừ.Như trong các tài liệu liên quan, vai trò của sự mở cửa thương mại có tác động yếu, kể cả khi mức độ làm phát được kiểm soát. Bài nghiên cứu có cấu trúc như sau: Phần 2 và 3 mô tả các phương pháp và dữ liệu cho các quốc gia đang được xem xét. Phần 4 và 5 trình bày các kết quả thực nghiệm cho các thông số kỹ thuật ban đầu và thay thế, tương ứng. Cuối cùng, mục 6 kết luận rút ra được của bài nghiên cứu. 2. Phương pháp luận Phép phân tích được tiến hành bởi việc sử dụng mô hình phương sai tiêu chuẩn như hình (1), Yt = c + ∑ F i Yt-1 + t (1) Yt đóng vai trò là vector của biến nội sinh, c là hằng số, Fi bao gồm các ma trận của các hệ số tự hồi quy và tlà véc tơ của các sai số trong mô hình.Việc xác định các cú sốc cấu trúc bằng cách đưa vào các biến cần quan sát một cách thích hợp và áp dụng phương pháp phân tích Cholesky cho ma trận hiệp phương sai của các sai số rút gọn t. Để bắt đầu cho việc phân tích, mô hình VAR sáu biến tương tự như của McCarthy năm 2000 và Hahnnăm 2003được phát triển.Mô hình cơ sở VAR đã áp dụng cho các quốc gia khác nhau bao gồm một chỉ số giá dầuoilt, một biến sản lượngyt, một tỷ giá hối đoáiet, chỉ số giá nhập khẩu pimpt, chỉ số giá tiêu dùng cpit, và một tỷ lệ lãi suất ngắn hạn it. Tỷ giá hối đoái và hai biến giá là các biến quan trọng trong phân tích của chúng tôi. Các biến đầu ra và giá dầu được đưa vào để tìm ra những ảnh hưởng đến khía cạnh thực sự của nền kinh tế. Việc đưa lãi suất vào mô hình cho phép thị trường tiền tệ, bao gồm tác động của chính sách tiền tệ gây ảnh hưởng đến mối quan hệt truyền dẫn. Trong mô hình cơ sở các biến được đưa vào như liệt kê ở trên. Việc sử dụng một chương trình xác định đệ quy hàm ý rằng những cú sốc được xác định theo thời điểm cũng ảnh hưởng đến các biến tương ứng và cả các biến được đưa vào ở giai đoạn sau, nhưng không tác động trở lại những biến được đưa vào trước đó. Do đó, dễ nhận thấy rằng việc đưa vào biến ngoại sinh nhất, trong trường hợp của chúng tôi, giá dầu được đưa vào đầu tiên. Những cú sốc giá dầu có thể ảnh hưởng đến tất cả các biến khác trong hệ thống nhưng đồng thời giá dầu cũng không bị ảnh hưởng bởi những cú sốc khác lên chính nó. Các biến tiếp theo trong hệ thống là sản lượng và tỷ giá hối đoái. Với việc đưa vào như vậy, chúng ta ngầm giả định tác động đồng thời của các cú sốc nhu cầu trên tỷ giá hối đoái trong khi cũng áp đặt một khoảng thời gian nhất định về tác động của các cú sốc tỷ giá hối đoái trên sản lượng. Các biến giá được đưa vào tiếp theo và đồng thời cũng bị ảnh hưởng bởi tất cả các cú sốc nói trên. Theo chuỗi giá, từ giá nhập khẩu đến giá tiêu dùng, theo đó các cú sốc giá nhập khẩu tác động lên giá tiêu dùng nhưng không phải ngược lại. Lãi suất được đưa vào cuối cùng, theo đó thị trường tiền tệ và trong chính sách tiền tệ đặc biệt, tác động trở lại đồng thời đến tất cả các biến trong mô hình. Các đặc điểm kỹ thuật cơ bản chỉ đại diện cho một trong nhiều lựa chọn thay thế hợp lý về việc xác định và các biến số đã đưa vào. Sau đó, chúng ta sẽ thực hiện phân tích độ nhạy sử sụng hai mô hình đáng tin cậy khác. 3. Mô tả dữ liệu Trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung phân tích trên những quốc gia từ ba khu vực trên thế giới, bao gồm, châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Hồng Kông), Trung và Đông Âu (Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan) với Thổ Nhĩ Kỳ, và Châu Mỹ La Tinh (Argentina, Chile và Mexico). Việc lựa chọn nhóm các quốc gia này theo tiêu chí phần lớn ở các quốc gia này là thị trường mới nổi. Đối với mỗi quốc gia, một tập hợp các dữ liệu hàng quý được thu thập, những số liệu đúng thời điểm cũng có thể chấp nhận. Giá dầu được đại diện bởi một chỉ số giá dầu thô tính bằng đô la Mỹ. Biến đầu ra thích hợp là GDP, mặc dù trong một số trường hợp chúng ta đã sử dụng sản xuất công nghiệp để có được một khoảng thời gian dài hơn mẫu. Đối với tất cả các quốc gia, chúng tôi sử dụng chuỗi tỷ giá hối đoái danh nghĩa, còn bao gồm nhập khẩu bằng đồng nội tệ và giá tiêu dùng, ngoại trừ Trung Quốc, nơi chúng tôi hạn chế phân tích giá tiêu dùng khi mà một chuỗi giá nhập khẩu là không có sẵn. Cuối cùng, công cụ chính sách tiền tệ được đại diện bởi lãi suất ngắn hạn. Khi thời kỳ mẫu được xác định bằng dữ liệu sẵn có, nó sẽ thay đổi giữa các nước (xem phụ lục một mô tả chi tiết về các nguồn dữ liệu, và những hàng đầu tiên trong Bảng 1 và 2 cho thời gian mẫu đã sử dụng). Một sự tổng hợp các điều kiện kinh tế vĩ mô trung bình tại các thị trường mới nổi trong giai đoạn mẫu mà dữ liệu có sẵn được đưa ra như trong Bảng 1. Lạm phát trung bình tương đối thấp ở các nước châu Á, đặc biệt là trong các trường hợp của Đài Loan và Singapore. Hai nước mới đây đã tiến hành kết hợp sự tăng trưởng mạnh mẽ GDP thực, lạm phát thấp và tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định, cả về giá trị và trong các điều kiện bất ổn. Các quốc gia trung và đông Âu đã kết hợp tăng trưởng sản lượng khoảng 2 và 3% với tỷ lệ tương đối cao nhưng lạm phát giảm. Cụ thể hơn, sự giảm lạm phát đã đạt được trước đó tại Cộng hòa Séc, mặc dù trong bối cảnh các nguồn lực suy thoái liên tục trong một số năm sau cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 1997. Giai đoạn được xem xét trùng với sự trở lại với các hệ thống nền kinh tế thị trường, Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan đều gánh chịu một sự tăng giá thực khá lớn, một phần liên quan đến hiệu ứng Balassa-Samuelson, nhưng cũng để tháo gỡ sự đánh giá thấp quy mô lớn trong giai đoạn đầu của tái cơ cấu. Một số quốc gia đã trải qua áp lực lạm phát mạnh mẽ trong giai đoạn mẫu được xem xét và có hai quốc gia đặc biệt nổi bật lên. Điều kiện kinh tế vĩ mô tài chính không chắc chắn gây áp lực lên Argentina, quốc gia này đã trải qua những thời điểm khác nhau trong suốt thời kỳ lịch sử kéo dài của sự bất ổn tài chính dẫn đến giai đoạn siêu lạm phát. Áp lực lạm phát mạnh mẽ và sự biến động tỷ giá hối đoái cao cũng đã lan khắp Thổ Nhĩ Kỳ với những khó khăn tài chính nghiêm trọng nổ ra tại nhiều thời điểm. Mexico cũng đã trải qua những thời kỳ quan trọng, mặc dù đã được kiềm chế hơn một cách tương đối, tuy vậy sự biến động tỷ giá hối đoái cao vẫn gây ra sự bất ổn ổn thị trường.Chile đã giữ một tỷ lệ lạm phát trung bình thấp hơn vào khoảng 13% như ghi nhận từ năm 1980.Cuối cùng, nhiều thị trường mới nổi trong mẫu của chúng tôi có thể được mô tả như các nền kinh tế khá mở về cấu trúc thương mại. Dùng như một điểm chuẩn nhập khẩu theo phần trăm GDP, chúng ta thấy rằng các nền kinh tế mở nhất trong mẫu của chúng tôi theo thứ tự giảm dần là, Hồng Kông, Singapore tiếp theo là Cộng hòa Séc và Hungary. Các nền kinh tế lớn hơn, Trung Quốc và một Argentin là tương đối khép kín so với các thị trường mới nổi khác trong nghiên cứu này. Bảng 2 tổng hợp các điều kiện kinh tế vĩ mô trung bình trong ba nền kinh tế tiên tiến tạo thành tiêu chuẩn so sánh của chúng tôi, cụ thể là Mỹ, khu vực đồng Euro và Nhật Bản. Các nền kinh tế này cho thấy lạm phát trung bình thấp cũng như điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn so với các thị trường mới nổi. Trên cơ sở kết quả do lạm phát gây ra, một thị trường trong số các thị trường mới nổi sẽ mong đợi tìm thấy những hệ số truyền dẫn thấp nhất ở châu Á và cao nhất ở châu Mỹ Latinh, ngoại trừ Chile. Tuy nhiên mức độ mở cửa có thể góp phần đóng vai trò đối trọng bằng cách làm giảm ảnh hưởng đến chỉ số truyền dẫn CPI trong nền kinh tế tương đối khép kín như Mỹ Latinh, trong khi đặc biệt mang lại tác động tích cực trong các trường hợp của Hồng Kông và Singapore - các q
Luận văn liên quan