Trong cuộc sống, để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu, con người phải lao động sản xuất để có thu nhập. Tuy vậy, không phải lúc nào người lao động cũng đảm bảo chắc chắn duy trì được việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định. Đó là những lúc gặp rủi ro như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động dẫn đến bị mất hoặc giảm việc làm.v.v. Hơn nữa, hoạt động lao động sản xuất của con người không phải lúc nào cũng thuận lợi vì còn bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, môi trường, xã hội.v.v. Vì thế, sự cần thiết phải có các biện pháp phòng tránh và khắc phục rủi ro đã trở thành một nhu cầu của con người. Đặc biệt trong nền sản xuất công nghiệp, khi mà số lượng người lao động có thu nhập chính từ tiền lương tăng lên thì sự hẫng hụt về thu nhập trong các trường hợp gặp rủi ro hoặc khi không còn khả năng lao động.v.v. càng trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống của họ.
Tính tất yếu phải đối mặt với những hẫng hụt về thu nhập trong những trường hợp bất khả kháng đã buộc người lao động tìm cách khắc phục bằng nhiều biện pháp khác nhau như tiết kiệm với phương châm "tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”hoặc dựa vào sự đùm bọc, cưu mang của cộng đồng với tinh thần "lá lành đùm lá rách".v.v. Nhưng xã hội càng phát triển, những biện pháp có tính truyền thống như trên đã tỏ ra không đủ độ an toàn để giúp cho mỗi người có thể khắc phục hoặc vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Bổ sung vào đó là các biện pháp phi truyền thống chỉ có trong xã hội hiện đại như bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), cứu trợ xã hội, trợ giúp xã hội .v.v. Đây là những trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội (ASXH) nhằm bảo vệ con người trước những rủi ro về kinh tế - xã hội.
12 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2265 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập an sinh học kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LÝ THUYẾT
1. Khái niệm “An sinh xã hội”
Trong cuộc sống, để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu, con người phải lao động sản xuất để có thu nhập. Tuy vậy, không phải lúc nào người lao động cũng đảm bảo chắc chắn duy trì được việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định. Đó là những lúc gặp rủi ro như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động dẫn đến bị mất hoặc giảm việc làm.v.v. Hơn nữa, hoạt động lao động sản xuất của con người không phải lúc nào cũng thuận lợi vì còn bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, môi trường, xã hội.v.v. Vì thế, sự cần thiết phải có các biện pháp phòng tránh và khắc phục rủi ro đã trở thành một nhu cầu của con người. Đặc biệt trong nền sản xuất công nghiệp, khi mà số lượng người lao động có thu nhập chính từ tiền lương tăng lên thì sự hẫng hụt về thu nhập trong các trường hợp gặp rủi ro hoặc khi không còn khả năng lao động.v.v. càng trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống của họ.
Tính tất yếu phải đối mặt với những hẫng hụt về thu nhập trong những trường hợp bất khả kháng đã buộc người lao động tìm cách khắc phục bằng nhiều biện pháp khác nhau như tiết kiệm với phương châm "tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”hoặc dựa vào sự đùm bọc, cưu mang của cộng đồng với tinh thần "lá lành đùm lá rách".v.v. Nhưng xã hội càng phát triển, những biện pháp có tính truyền thống như trên đã tỏ ra không đủ độ an toàn để giúp cho mỗi người có thể khắc phục hoặc vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Bổ sung vào đó là các biện pháp phi truyền thống chỉ có trong xã hội hiện đại như bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), cứu trợ xã hội, trợ giúp xã hội .v.v. Đây là những trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội (ASXH) nhằm bảo vệ con người trước những rủi ro về kinh tế - xã hội.
Vậy an sinh xã hội là gì?
Trong thực tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp cận nên hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về ASXH.
- Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện pháp công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh thu nhập.
- Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): ASXH là hình thức bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong, cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em.
- Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố của hệ thống chính sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ không chỉ có công nhân. Những vấn đề mà ISSA quan tâm nhiều trong hệ thống ASXH là chăm sóc sức khoẻ thông qua bảo hiểm y tế; hệ thống BHXH, chăm sóc tuổi già; phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã hội.
Ở Việt Nam, mặc dù ASXH là một lĩnh vực còn nhiều mới mẻ nhưng cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý nghiên cứu về vấn đề này.
- Theo GS Hoàng Chí Bảo thì: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người và xã hội. ASXH là những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt động, trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách.
- Theo PGS.TS Nguyễn Hải Hữu thì "ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ có nguy cơ suy giảm, mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khác quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ và cung cấp các dịch vụ sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội".
Vậy : An sinh xã hôi là những can thiệp của Nhà nước và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho các thành viên trong cộng đồng do bị mất hoặc giảm thu nhập bởi các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.
2. Cấu thành bộ phận an sinh xã hội.
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết. Trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện, BHYT là hình thức bảo hiểm mang tính cộng đồng chia sẻ sâu sắc được áp dụng trong lĩnh vực khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho mọi người, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật BHYT.
Trong hệ thống an sinh xã hội thì hệ thống BHXH giữ vai trò trụ cột, bền vững nhất. Phát triển BHXH sẽ là tiền đề và điều kiện để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. bao gồm các khoản trợ cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế. Hiện nay bảo hiểm xã hội Việt Nam đã được cải cách và ngày càng phát huy vai trò của mình đối với đời sống người lao động. Đối tượng bảo hiểm xã hội đã được mở rộng tới mọi người lao động với hai hình thức tham gia bắt buộc và tự nguyện. Tính đến hết năm 2009, tổng số người đang thụ hưởng chính sách BHXH là: 2.041.538 người, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là: 9.101.039 người, số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là: 34.669 người; tổng số đối tượng tham gia BHYT: 53,3 triệu người; tổng số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hôị thường xuyên hàng tháng là: 1.253.000 người và hàng năm Chính phủ cứu trợ đột xuất cho hàng triệu lượt người, góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho toàn dân.
Cứu trợ xã hội là một công tác trọng tâm trong chính sách xã hội ở nước ta. Cứu trợ xã hội ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu theo hai chế độ: cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất. Cứu trợ thường xuyên áp dụng với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật nặng... với các hình thức bằng tiền, hiện vật để giúp đỡ các đối tượng này ổn định cuộc sống. Cứu trợ xã hội đột xuất áp dụng với các đối tượng gặp rủi ro, hoạn nạn, thiên tai hạn hán, hoả hoạn... Chế độ cứu trợ này có tính chất tức thời giúp đỡ con người vượt qua hoạn nạn, khó khăn. Ưu đãi xã hội là một bộ phận đặc thù trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội là những người tham gia bảo vệ giải phóng đất nước. Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước với dân, với cách mạng (và thành viên của gia đình) nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ. Điều này chẳng những thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và toàn xã hội, mà còn nói lên đạo lý của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Tóm lại, an sinh xã hội là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội đã được nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động... Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cho cuộc sống của các thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội đối với người gặp rủi ro, bất hạnh, ... thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận dụng toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa...”. Để triển khai thực hiện chủ trương này, thời gian qua chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật với mục đích nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, là “tấm lá chắn” cho mọi thành viên xã hội, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển bền vững
II. CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
Anh H tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học con sinh ra dị tật dị dạng. Năm 1988 anh được nhận vào làm việc tại công ty X. Năm 2007 anh H bị tai nạn lao động do sơ suất trong quá trình vận hành máy bị suy giảm 28% khả năng lao động. Năm 2010 do vết thương tai nạn lao động tái phát, anh phải vào viện điều trị 2 tháng, sau khi giám định lại, hội đồng y khoa kết luận anh bị mât 61% khả năng lao động. Do có tới 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc độc hại, lại đã 49 tuổi nên anh làm đơn xin nghỉ.
Hỏi
1. Hãy xác định các chế độ an sinh mà anh H được hưởng.
2. Hãy giải quyết quyền lợi về bảo hiểm hưu chí cho anh H theo quy định của pháp luật hiện hành
BÀI LÀM
1. Hãy xác định các chế độ an sinh mà anh H được hưởng.
Điều 9 Nghị định 42-CP quy định chế độ bảo hiểm xã hội.
“ Sau thời gian điều trị mà thương tật hoặc bệnh tật ổn định người lao động được hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp từ quỹ bảo hiểm xã hội như sau:
1. Tuỳ theo mức độ thương tật hoặc bệnh tật được trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng, mức trợ cấp này được tính trên cơ sở tiền lương trung bình của viên chức Nhà nước:
a) Bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 60% thì được trợ cấp một lần theo mức sau:
Mức suy giảm khả năng lao động
Mức trợ cấp 1 lần
Từ 05% đến 20%
2 tháng tiền lương
Từ 21% đến 30%
4 tháng tiền lương
Từ 31% đến 40%
6 tháng tiền lương
Từ 41% đến 50%
9 tháng tiền lương
Từ 51% đến 60%
12 tháng tiền lương
b) Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 100% thì được xếp vào hạng và được trợ cấp hàng tháng như sau:
Mức suy giảm khả năng lao động
Xếp hạng
Mức trợ cấp hàng tháng
Từ 61% đến 70%
4
50% mức tiền lương
Từ 71% đến 80%
3
60% mức tiền lương
Từ 81% đến 90%
2
70% mức tiền lương
Từ 91% đến 100%
1
80% mức tiền lương
Người được xếp hạng 1 và hạng 2 mà không tự bảo đảm được sinh hoạt cá nhân thì còn được hưởng phụ cấp phục vụ.
2. Người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp được cấp một lần phương tiện để khắc phục một phần chức năng bị tổn thương. Khi thương tật hoặc bệnh tật tái pháp được điều trị và giám định lại khả năng lao động.
Thứ nhất, năm 2007 anh H bị tai nạn lao động do sơ suất trong quá trình vận hành máy bị suy giảm 28% khả năng lao động. Năm 2010 do vết thương tai nạn lao động tái phát, anh phải vào viện điều trị 2 tháng, sau khi giám định lại, hội đồng y khoa kết luận anh bị mât 61% khả năng lao động..
Như vây, trong trường hợp này thì anh H được hưởng mức trợ cấp 1 lần với mức 4 tháng tiền lương tương ứng với thương tật từ 21% đến 30% từ năm 1988 đến năm 2010. Năm 2010 sau khi vết thương tái phát, hội đồng y khoa kết luận lại anh bị mất 60% khả năng lao động như vậy thì anh được hưởng trợ cấp theo điểm b Điều 9 nghị định 43/CP, và thuộc hạng 4 hưởng 50 % tiền lương.
Điều 44. Luật bảo hiểm xã hội
Thời điểm hưởng trợ cấp
1. Thời điểm hưởng trợ cấp quy định tại các điều 42, 43 và 46 của Luật này được tính từ tháng người lao động điều trị xong, ra viện.
2. Trường hợp thương tật hoặc bệnh tật tái phát, người lao động được đi giám định lại mức suy giảm khả năng lao động thì thời điểm hưởng trợ cấp mới được tính từ tháng có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa.
Thứ hai, do anh H là người từng tham gia kháng chiến, con sinh ra lại bị dị tật dị dạng nên theo Điều 26 Nghị quyết số 51/2001/QH10. anh H được hưởng các chế độ an sinh sau:
“1. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học, bị mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất độc hoá học.
2. Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bao gồm:
a) Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động;
b) Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người và khả năng của Nhà nước;
c) Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất, miễn hoặc giảm thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao động công ích theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả năng của Nhà nước và địa phương.”
Thứ ba, anh H được hưởng chế độ hưu chí lần.
2. Hãy giải quyết quyền lợi về bảo hiểm hưu chí cho anh H theo quy định của pháp luật hiện hành.
Sẽ có 2 trường hợp xảy ra:
+ Trường hợp 1, anh H đã có thời gian đóng bảo hiểm là 20 năm.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, người lao động nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây thì sẽ được hưởng trợ cấp hàng tháng với mức lương thấp hơn:
Điều 51. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động
“Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 2 của Luật này đã đóng bảo hiểm xã hội đủ hai mươi năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 50 của Luật này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên;
2. Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành”.
Như vậy, trong trường hợp không cần thiết phải quy định vào tuổi đời. Nhà nước đã quy định mức hưu trí thấp cho những người lao động vì họ chưa đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật ( anh H 49 tuổi) và mất tới 61% sức lao động, rất khó có thể làm việc bình thường, nếu có thời gian đóng bảo hiểm ở mức luật quy định ( 20 năm) đủ để cân đối quỹ kết hợp với khả năng tương trợ cộng đồng thì có thể đảm bảo cho đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội hàng tháng
Mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng trong trường hợp này cũng được tính dựa trên mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Vì vậy, cách tính lương hưu trong trường hợp này cũng giống như trong trường hợp nghỉ đúng tuổi. Song vì nghỉ trước tuổi nên cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi bị giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Điều 52. Mức lương hưu hằng tháng
“1. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 50 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 58, Điều 59 hoặc Điều 60 của Luật này tương ứng với mười lăm năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
2. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 51 của Luật này được tính như quy định tại khoản 1 Điều này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 1%.
3. Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung.”
+ Trường hợp anh H chưa có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội.
Đối với những người lao động không đủ điều kiện về tuổi đời, thời gian đóng bảo hiểm hoặc cả hai để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng thì sẽ thuộc diên hưởng chế độ trợ cấp hưu trí 1 lần.
Pháp luật quy định: đối với người lao động nghỉ việc đã đủ tuổi nghỉ hưu hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên do ốm đa, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng thì sẽ được mức trợ cấp hưu trí một lần. Mức trợ cấp bảo hiểm được tính theo thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội tính bằng 1 tháng mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm.
Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi nghỉ hưu và chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định thì được cấp sổ bảo hiểm xã hội và bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để đến khi có điều kiện thì đóng bảo hiểm xã hội. Trong trường hợp người lao động gặp rủi ro bị chết thì gia đình được hưởng chế độ tử tuất, nếu ốm đau hoặc sau một thời gian không tiếp tục làm việc thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc mà người lao động có đơn tự nguyện thì cũng giải quyết trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần.
Mức hưởng bảo hiểm xã hội 1 lần được quy định trong
Điều 56 luật bảo hiểm xã hội. Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần
“Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội”.
TÀI LIỆU THAM KHẢOBộ Lao động Thương binh và Xã hội, Kỷ yếu hội thảo quốc gia về Bảo hiểm xã hội, 1992.
Đặng Đức San, “về thuật ngữ an sinh xã hội”, Tạp chí khoa học Kinh tế - Luật , số 1/2002.
Luật bảo hiểm xã hội 2006
Giáo trình An sinh xã hội trường Đại học Luật Hà Nội
Nghị định 42-CP quy định chế độ bảo hiểm xã hội.
Nghị quyết số 51/2001/QH10