Bài tập Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật

Văn bản pháp luật là phương tiện quan trọng và chủ yếu trong hoạt động quản lý của Nhà nước. Trên thực tế, văn bản pháp luật thường có mối quan hệ nhất định với các quan hệ xã hội và tác động vào đời sống xã hội ở những phạm vi và giới hạn nhất định. Hiệu quả của sự tác động đó được xem xét từ nhiều yếu tố như: Thẩm quyền ban hành văn bản, hình thức văn bản, phạm vi điều chỉnh và chất lượng của văn bản pháp luật. Trong đó, chất lượng văn bản pháp luật được đánh giá là một nội dung quan trọng, mang tính quyết định đối với hiệu lực và hiệu quả tác động của văn bản pháp luật. Nhìn chung, chất lượng văn bản pháp luật thường thể hiện ở sự phù hợp đối với nhu cầu và mục đích của xã hội, ở mức độ và hiệu quả tác động tới các quan hệ xã hội, ở tính khả thi trong cuộc sống. Do đó tính khả thi của văn bản là một trong những điều kiện mang lại hiệu lực thực tế cho văn bản pháp luật nên ta sẽ tìm hiểu các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu Văn bản pháp luật là phương tiện quan trọng và chủ yếu trong hoạt động quản lý của Nhà nước. Trên thực tế, văn bản pháp luật thường có mối quan hệ nhất định với các quan hệ xã hội và tác động vào đời sống xã hội ở những phạm vi và giới hạn nhất định. Hiệu quả của sự tác động đó được xem xét từ nhiều yếu tố như: Thẩm quyền ban hành văn bản, hình thức văn bản, phạm vi điều chỉnh và chất lượng của văn bản pháp luật. Trong đó, chất lượng văn bản pháp luật được đánh giá là một nội dung quan trọng, mang tính quyết định đối với hiệu lực và hiệu quả tác động của văn bản pháp luật. Nhìn chung, chất lượng văn bản pháp luật thường thể hiện ở sự phù hợp đối với nhu cầu và mục đích của xã hội, ở mức độ và hiệu quả tác động tới các quan hệ xã hội, ở tính khả thi trong cuộc sống. Do đó tính khả thi của văn bản là một trong những điều kiện mang lại hiệu lực thực tế cho văn bản pháp luật nên ta sẽ tìm hiểu các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật. 2. Nội dung chính 2.1. Khái quát về tính khả thi của văn bản pháp luật. Khi thảo luận về một dự thảo luật hoặc một văn bản luật đã được Quốc hội ban hành chúng ta thường nói đến tính khả thi của văn bản và thường băn khoăn liệu văn bản đó có tính khả thi hay không? Vậy khả thi là gì? Một văn bản pháp luật cần phải đáp ứng những yêu cầu nào để có tính khả thi và phải làm như thế nào để xây dựng được một văn bản pháp luật đảm bảo tính khả thi. "Khả thi" theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khả năng thực hiện được của một dự kiến, đề án hay một cách khác là những quy định của dự án luật có khả năng đi vào cuộc sống mà không dừng lại ở trên giấy. Trên cơ sở đó hình thành cách hiểu phổ biến về tính khả thi của văn bản pháp luật, coi đó là mối liên hệ trực tiếp giữa tính hợp pháp và sự thoả mãn những đòi hỏi cơ bản của đời sống xã hội, là thuộc tính của những văn bản có thể thi hành được trong thực tiễn vì có nội dung phù hợp (không cao hơn các điều kiện khách quan của đời sống xã hội). Như vậy, tính khả thi là một trong những điều kiện mang lại hiệu lực thực tế cho văn bản pháp luật, những văn bản pháp luật có tính khả thi thì có hiệu lực thực tế cao, tức là sự tác động đạt mức độ, chất lượng cao. Ngược lại, những văn bản pháp luật không khả thi mà có hiệu lực pháp lý thì vẫn được tổ chức thực hiện nên vẫn tác động vào các quan hệ xã hội, do đó vẫn có hiệu lực thực tế nhưng lại ở mức độ thấp, chất lượng của sự tác động thấp. Mặt khác, những văn bản pháp luật có tính khả thi nhưng do có các quy định quá lạc hậu so với điều kiện xã hội thì các chủ thể có liên quan sẽ cố ý không thực hiện và văn bản có thể không có hiệu lực thực tế. Còn hiệu lực pháp lý và tính khả thi của văn bản là hai phạm trù hoàn toàn độc lập với nhau, văn bản có hiệu lực pháp lý. Do vậy việc đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong quá trình xây dựng văn bản. Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong giai đoạn soạn thảo dự án luật, cơ quan soạn thảo phải thực hiện rất nhiều hoạt động để bảo đảm chất lượng của dự án, đồng thời cơ quan thẩm định văn bản phải tiến hành thẩm định về tính khả thi của văn bản; Trong giai đoạn dự án luật được chuyển sang các uỷ ban của Quốc hội để thẩm tra thì uỷ ban chủ trì thẩm tra, phải tiến hành thẩm tra về tính khả thi của văn bản. Tất cả những quy định đó của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là nhằm đảm bảo cho dự án luật sau khi được Quốc hội thông qua có tính khả thi, có khả năng phát huy hiệu quả trên thực tế. 2.2. Các điều kiện để bảo đảm tính khả thi trong văn bản pháp luật. Đời sống xã hội giữ vai trò quyết định tới nhu cầu ban hành văn bản và nội dung văn bản pháp luật nên sự tác động của văn bản vào đời sống xã hội được quyết định bởi những yếu tố tồn tại trong thế giới khách quan của đời sống xã hội mà nhà quản lý phải dựa vào đó để hình thành nội dung văn bản, để tác động vào đời sống xã hội. Nếu văn bản đó có chất lượng cao, sự phản ánh đó là đúng đắn thông qua các quy định phù hợp thì văn bản sẽ được xã hội thừa nhận, tức là đã tự làm nảy sinh hiệu lực thực tế. Ngược lại, nếu văn bản có chất lượng thấp, phản ánh sai lệch bằng những quy định quá cao hoặc quá lạc hậu so với thực tiễn thì văn bản đó khó có thể được thi hành. Do vậy sẽ có một số điều kiện để bảo đảm tính khả thi trong văn bản pháp luật như sau: Một là, tính khả thi của văn bản thể hiện ở sự phù hợp của nội dung văn bản pháp luật với đường lối chính sách của Đảng, với lợi ích của các bên có liên quan vì nội dung văn bản pháp luật luôn trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới lợi ích của cá nhân, tổ chức. Với tư cách là phương tiện cơ bản của nhà nước trong quản lý, các văn bản pháp luật có phải có nội dung phù hợp với đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thể chế hoá thành pháp luật hoặc trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác. So sánh với xã hội có giai cấp thì vấn đề lợi ích luôn hết sức phức tạp, ở một chừng mực nào đó vẫn tồn tại những mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai tầng khác nhau và khi đó nếu nội dung văn bản phù hợp với lợi ích của giai tầng này nhưng có thể sẽ bất lợi cho giai tầng khác. Vì vậy, với bản chất xã hội của mình nhà nước là chủ thể duy nhất đại diện hợp pháp cho toàn xã hội và Nhà nước phải có nhiệm vụ xem xét để tạo ra sự hợp lý về lợi ích của tất cả các giai tầng trong xã hội thì mới có thể tạo ra sự ổn định, tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Trong quá trình đó cần xác định rõ những lợi ích nào là lợi ích chung cơ bản phải bảo vệ, không thể dung hoà, những lợi ích nào là riêng hoặc thứ yếu và có thể dung hoà. Đối với những vấn đề cơ bản như: Vai trò lãnh đạo của Đảng định hướng phát triển, nền tảng tư tưởng của xã hội quyền sở hữu của nhà nước, quyền tự do dân chủ của công dân thì nhà nước phải thiết lập, bảo vệ, còn đối với những lợi ích riêng của một giai tầng nào đó đối lập với lợi ích của giai tầng khác thì nhà nước cần có giải pháp dung hoà lợi ích của những giai tầng đó. Khi đó văn bản pháp luật sẽ được tự giác thực hiện và nhờ đó sẽ có khả năng tác động cao nhất khi có nội dung phù hợp với lợi ích của những bên hữu quan; Trong trường hợp ngược lại thì khó có thể tránh khỏi sự lẩn tránh thực hiện, thậm chí chống đối là sự tác động của nhà nước, văn bản có hiệu lực thấp và muốn được thực hiện trong thực tế thì nhà nước phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế. Hai là, tính khả thi của văn bản pháp luật thể hiện ở sự phù hợp với nội dung văn bản với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội. Sự phù hợp đó trước hết thể hiện trong tính kịp thời của các văn bản pháp luật. Vì các vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước rất đa dạng, có những vấn đề phát sinh từ trước đang được tác động bằng những văn bản pháp luật nhưng sự tác động chưa khoa học, kém hiệu quả. Có vấn đề mới phát sinh mà chưa có văn bản nào tác động hay có vấn đề tất yếu sẽ phát sinh và khi phát sinh cần được tác động ngay nên việc chủ yếu có thẩm quyền nắm bắt chính xác kịp thời những vấn đề đó vì ra văn bản pháp luật để giải quyết là cần thiết, là tất yếu khách quan, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của đời sống xã hội, kịp thời tác động tích cực vào các quan hệ xã hội (khả năng tác động cao). Ngược lại, nếu văn bản được ban hành dựa trên suy đoán chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tiễn của chủ thể quản lý nhà nước thì khó có thể biến thành hiện thực (khả năng tác động thấp) vì thực tiễn không có nhu cầu được tác động bởi văn bản đó. Thực tế cho thấy, có những văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ quy định về việc cấm đốt pháo (cách đây 10 năm). Khi mới ban hành ai cũng băn khoăn về tính khả thi của quy định và nhiều người cho rằng không thể thực hiện được vì đây là truyền thống, phong tục tập quán lâu đời của người Việt Nam, băn khoăn về việc chúng ta không đủ lực lượng để xử lý vi phạm. Thực tế các quy định đó được thực hiện nghiêm túc trong rất nhiều năm qua do khâu tổ chức thực hiện tốt, người tổ chức thực hiện kiên quyết và quan tâm đến việc chỉ đạo, tiến hành sâu rộng các biện pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm. Quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, việc thực hiện dựa vào sức mạnh của cộng đồng dân cư...Nhưng ngược lại cũng có những văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ có tính chất tương tự như quy định về việc cấm hút thuốc lá tại công sở. (và kèm theo nó là các quy định về phạt tiền đối với hành vi vi phạm) tuy cũng là văn bản hoàn toàn có tính khả thi (rất nhiều nước trên thế giới đã thực hiện được). Nhưng trên thực tế lại không được thực hiện ở Việt Nam và khi Nghị quyết của Chính phủ quy định về bắt buộc đội mũ bảo hiểm đi mô tô, xe máy trên mọi tuyến đường có hiệu lực thì việc người dân có chấp hành hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức thực hiện quy định này của Chính phủ... Đồng thời nội dung văn bản pháp luật phải phù hợp với thực trạng các yếu tố thuộc cơ sở vật chất trong xã hội. Cơ sở của đời sống xã hội rất đa dạng gồm: tài chính, nguyên liệu, vật liệu, tài nguyên môi trường, đất đai, giao thông... là những điều kiện vật chất cần thiết cho việc thực hiện văn bản nên nội dung văn bản phải phản ánh (trực tiếp và gián tiếp) về thực trạng, phải phù hợp (không cao hơn hoặc thấp hơn) thì mới bảo đảm tính khả thi, ngược lại, chính những yếu tố đó sẽ bị biến đổi trong những chừng mực nhất dịnh khi có sự tác động của văn bản. Vì vậy, khi hình thành nội dung văn bản, chủ thể ban hành phải dựa trên cơ sở các điều kiện vật chất vốn có trong thực tiễn mà không thể chủ quan duy ý chí, phải chú ý tới khả năng mang lại hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả kinh tế của chúng trong quá trình tác động, nếu không văn bản có thể rơi vào tình trạng không khả thi hoặc không có hiệu quả, thậm chí phản tác dụng và có thể gây ra những thiệt hại khó lường. Mặt khác, nội dung văn bản phải phù hợp với thực trạng điều kiện nhân lực trong xã hội vì con người vừa là chủ thể hình thành nên văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện văn bản đó trong thực tiễn lại vừa là đối tượng quản lý chịu sự tác động của văn bản, có nghĩa vụ thành văn bản, nên dù với tư cách nào thì con người cũng phải thực hiện tốt những hoạt động đó phải có đủ về số lượng và chất lượng nhân lực; nếu thiếu điều kiện về nhân lực thì sẽ không thể kịp thời ban hành văn bản và cũng không thể thực hoá các quy định trong văn bản nhưng nếu sử dụng không hết nhân lực thì sẽ gây lãng phí, làm giảm sút hiệu lực của quản lý nhà nước. Nếu chỉ tiếp cận từ góc độ hẹp, xem xét vai trò của con người trong giai đoạn thực hiện văn bản pháp luật. Thì cũng có thể thấy rõ, số lượng và đặc biệt trong trình độ nhận thức của những đối tượng quản lý có liên quan ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện văn bản pháp luật. Vì vậy, nếu nội dung của văn bản pháp luật phù hợp với trình độ nhận thức chung. Với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và của nhân dân thì sẽ góp phần tích cực trong việc tạo ra nhận thức đúng đắn, tâm lý tích cực đối với văn bản, mong muốn văn bản pháp luật được thực hiện tự giác, cố gắng tối đa thực hiện và có đủ khả năng, trình độ cần thiết để thực hiện văn bản, ngược lại, nếu không phù hợp thì có thể dẫn tới tình trạng những bên liên quan cố ý lẩn tránh thực hiện nghĩa vụ, hoặc không đủ năng lực cần thiết để thực hiện văn bản Bên cạnh đó, nội dung văn bản pháp luật phải phù hợp với thực trạng, ý thức xã hội, đặc biệt là các qui phạm đạo đức, phong tục, tập quán trong xã hội. Vì vậy muốn tác động vào các đối tượng quản lý, trước hết chủ thể có thẩm quyền phải sử dụng văn bản để tác động tới nhận thức của những đối tượng có liên quan. Qua đó, mới điều chỉnh hành vi của họ, trong khi đó nhận thức của những đối tượng này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan thuộc đời sống ý thức xã hội nên giữa ý thức xã hội với nội dung của các văn bản pháp luật có mối liên hệ mật thiết, có sự tác động qua lại rất sâu sắc. Nhà nước dùng văn bản để tác động và có thể tạo ra sự thay đổi từng bộ phận của ý thức xã hội, nhưng về nguyên tắc vẫn phải bảo vệ, phát triển và cao hơn nữa là phải tạo ra sự phù hợp với các qui phạm đạo đức, tôn giáo, những phong tục, tập quán trong xã hội không trái với bản chất, mục tiêu của nhà nước. Nếu tác động trái với các yếu tố khách quan của đời sống ý thức xã hội thì sẽ đẩy các bên có liên quan vào tình trạng phải cân nhắc, lựa chọn giữa pháp luật với các qui phạm khác được lựa chọn, pháp luật bị xâm hại hoặc khi nhà nước tổ chức thực hiện triệt để các qui định không phù hợp thì tất yếu sẽ làm thay đổi, thậm chí loại bỏ một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có thể tạo ra những xáo trộn trong nhận thức, tình cảm của đối tượng quản lý theo khuynh hướng mà nhà nước không dự kiến và cũng không mong muốn. Do đó, khi xác lập nội dung văn bản pháp luật cần đặc biệt chú ý tới các yếu tố thuộc phạm trù ý thức xã hội để tạo ra sự phù hợp của nội dung văn bản pháp luật với những yếu tố đó thì mới đảm bảo được hiệu lực, hiệu quả tác động của văn bản. Ngoài ra, tính khả thi của văn bản pháp luật được quyết định bởi sự phù hợp của nội dung văn bản pháp luật với qui luật vận động của đời sống xã hội, tác động vào những quan hệ xã hội. Theo đúng những khuynh hướng vận động nội tại, mang tính tất yếu của chúng. Nếu nội dung văn bản phù hợp với những qui luật đó thì khả năng tác động của nó rất cao và chủ thể quản lý sẽ đạt được mục đích đã đặt ra. Ngược lại, khi nội dung văn bản pháp luật không phù hợp qui luật thì văn bản có rất ít, thậm chí hoàn toàn không có khả năng tác động vào các quan hệ xã hội, văn bản trở nên vô nghĩa. Không có tác dụng trên thực tế và nếu nhà nước dùng sức mạnh cưỡng chế để tổ chức thực hiện những văn bản này thì có thể gây ra những hậu quả khó lường, vì vậy cần phát hiện để vận dụng các qui luật này vào việc hình thành nội dung văn bản, trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin. Ba là, tính khả thi của văn bản pháp luật phải phù hợp với nội dung của văn bản pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế, mở rộng giao lưu hợp tác nhiều mặt với các nước, các tổ chức quốc tế thì sự phù hợp này là cần thiết. Đặc biệt là các qui định về quản lý kinh tế, tuy nhiên cũng cần xác định rõ những vấn đề nào mang tính nguyên tắc, không thể tiếp thu "nội hoá", có như vậy mới có thể vừa tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng quan hệ nhiều mặt với các nước vừa giữ vững lập trường không bị chệch hướng phát triển đã lựa chọn và không làm mất bản sắc dân tộc trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bốn là, tính khả thi cuả văn bản pháp luật thể hiện trong kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật. Trong các yếu tố thuộc kỹ thuật soạn thảo văn bản thì việc sử dụng ngôn ngữ có tác động trực tiếp và khá sâu sắc tới tính khả thi của văn bản vì ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt ý chí của cơ quan ban hành văn bản nên sự thể hiện ý chí đó có đựơc rõ ràng, chặt chẽ, chính xác hay không là lệ thuộc vào kỹ năng của người soạn thảo. Trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bên cạnh đó việc phân chia, sắp xếp văn bản thành những đề mục nhỏ hơn, có phối hợp với việc đánh số, đặt tên đặt nhan đề cho các đề mục đó. Việc xác lập cơ cấu hình thức của văn bản cũng ảnh hưởng tới tâm lý tình cảm của đối tượng quản lý. Vì vậy, cũng gián tiếp ảnh hưởng tới hiệu lực của văn bản pháp luật. Năm là, các quy định của luật phải có bộ máy thực hiện, xử lý hành vi vi phạm và có đủ ngân sách, kinh phí để thực hiện. Đồng thời cần có những quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong thực hiện các quy định của văn bản lụât. Và để đảm bảo tính khả thi của luật thì các quy định của văn bản đó phải minh bạch, cụ thể, rõ ràng, chi tiết, có khả năng thi hành ngay mà không cần phải chờ quá nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, và phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Thực tế, cho thấy có những văn bản quy định nguyên tắc chung chung, hoàn toàn phụ thuộc vào các văn bản chi tiết hướng dẫn thi hành. Do đó, chậm đi vào cuộc sống, những văn bản chồng chéo, mâu thuẫn không đảm bảo tính đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật cũng gây ra rất nhiều vướng mắc trong tổ chức thực hiên và trong thực tế cũng khó đi vào cuộc sống Vậy cần phải làm gì để xây dựng được văn bản pháp luật đảm bảo tính khả thi? Để văn bản pháp luật có tính khả thi thì việc xây dựng văn bản pháp luật phải đảm bảo tính khách quan, không đựơc chủ quan duy ý chí, thoát ly thực tiễn kinh tế - xã hội, coi thường quy luật của xã hội, áp đặt lên xã hội những quy định mà nó không cần, không muốn, không thể thực hiện được. Muốn làm đựơc như vậy thì đòi hỏi các cơ quan xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn xã hội, thực tiễn và yêu cầu quản lý Nhà nứơc. Tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến các dự án, khảo sát đánh giá thực trạng quan hệ xã hội, tổ chức lấy ý kiến đánh gía thực trạng phản ứng của dư luận xã hội, của nhân dân, các ngành, các cấp đối với những nội dung cơ bản của dự án. Tính khách quan trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật đòi hỏi phải khác phục tình trạng cục bộ, địa phương, cục bộ ngành, coi thường lợi ích chung chính đáng của xã hội, ngành, địa phương khác. Đó cũng chính là những công việc yêu cầu mà luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã đặt ra cho cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật. Để văn bản đó có hiệu lực thực tế (tính khả thi) 3. Kết luận Trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật, bên cạnh văn bản pháp luật có nội dung hợp pháp thì văn bản đó phải có tính khả thi và có hiệu lực trên thực tế, phù hợp với điều kiện xã hội (thực tiễn khách quan). Khả thi là điều kiện cần của một văn bản pháp luật để văn bản đó thực sự đi vào cuộc sống phát huy hiệu quả trên thực tế thì phải thông qua khâu tổ chức thực hiện thì văn bản đó mới thực sự có hiệu lực thực tế. Điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội, những vấn đề mới mang tính thời sự nóng bỏng hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008. Nguyễn Thế Quyền, Hiệu lực của văn bản pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2005. Bùi Thị Đào " Mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính" Tạp chí luật học, số 2/2008 Hoàng Minh Hà " bàn về tính hợp lý của van bản pháp luật, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 3/2008. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 MỤC LỤC văn bảnjjjjjjjjjjjjjjjjjjjj