Sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang người còn sống được thực hiện theo một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại di sản và quy định của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào ý chí của người đã chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết để lại sang người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp luật. Như vậy thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển di sản của người chết sang những người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa kế. Mặt khác theo quy định của pháp luật thì khi không có căn cứ để dịch chuyển di sản của người chết theo theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển theo quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế. Điều 674 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa về thừa kế theo quy định của pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Diện và hàng thừa kế chỉ được đặt ra trong loại hình thừa kế theo pháp luật.
19 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2736 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Diện và hàng thừa kế theo pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang người còn sống được thực hiện theo một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại di sản và quy định của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào ý chí của người đã chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết để lại sang người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp luật. Như vậy thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển di sản của người chết sang những người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa kế. Mặt khác theo quy định của pháp luật thì khi không có căn cứ để dịch chuyển di sản của người chết theo theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển theo quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế. Điều 674 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa về thừa kế theo quy định của pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Diện và hàng thừa kế chỉ được đặt ra trong loại hình thừa kế theo pháp luật.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Diện thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch chuyển di sản thừa kế của người chết để lại theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp luật. Nghĩa là theo trình tự này thì ai được hưởng di sản của người chết để lại, hưởng như thế nào, bao nhiêu, hoàn toàn do pháp luật xác định. Tuy nhiên, khi xác định phạm vi những người được hưởng di sản của người chết để lại, pháp luật về thừa kế của bất kì quốc gia nào cũng phải dựa trên ý chí mang tính truyền thống của người để lại di sản nếu họ chết tài sản còn lại của họ (di sản thừ kế) phải được dịch chuyển cho những ngời thân thích của họ. Mặt khác, pháp luật về thừa kế còn phụ thuộc vào chế độ sở hữu, điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và theo từng thời kì phát triển lịch sử nhất định. Vì thế, có thể nói rằng thừa kế theo pháp luật là việc pháp luật phỏng đoán ý chí của người để lại di sản để theo đó xác định việc dịch chuyển di sản của người đó cho những ai trên cơ sở dựa vào điều kiện kinh tế xã hội của nhà nước trong từng thời kì nhất định.
Một trong những vấn đề chình yếu của chế định thừa kế theo pháp luật là việc xác định diện thừa kế. Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người được pháp luật xác định nằm trong diện có thể được hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật. Những người được pháp luật xác định nằm trong diện thừa kế phải là người thân thích của người để lại di sản thừa kế được xác định trên cơ sở quan hệ hôn nhân gia đình giữa họ với người để lại di sản.
Về diện và hàng thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Ở nước ta, trước năm 1945 dưới các chế độ cũ, nhất là dưới chế đọ phong kiến với ý thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột của mình, giai cấp thống trị xem quyền tư hữu là một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Ngay trong quan hệ gia đình thì quan hệ huyết thống được coi trọng và được đề cao, con quan hệ hôn nhân đã bị xem nhẹ. Tư tưởng trọng nam khinh nữ nặng nề đã có ảnh hưởng sâu sắc đến chế định thừa kế. Thừa kế di sản trong thời kì này được xem như một phương tiện để duy trì và bảo vệ khối tài sản của nội tộc và do những người trong nội tộc của người để lại di sản được ưu tiên thừa hưởng. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và trong cả quan hệ thừa kế. Bộ luật của chế độ cũ quy định về diện thừa kế theo nguyên tắc ưu tiên bảo vệ quyền thừa kế của những người thuộc họ nội của người để lại di sản và có sự phân biệt giữa vợ cả với vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước. Quyền lợi của người vợ góa chỉ được bảo vệ sau các con, cháu, cha, mẹ, ông, bà, các cụ, anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Tóm lại, diện thừa kế theo pháp luật của chế độ cũ chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống nội tộc, quan hệ huyết thống ngoại tộc chỉ được xét vào diện thừa kế khi không còn người thừa kế theo quan hệ huyết thồng nội tộc.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ cũ, pháp luật phong kiến ở nước ta đã xóa bỏ tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ và quy định người vợ góa hay người chồng góa thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng hay người vợ chết trước. Trong giai đoạn đầu thực hiện các chủ trương đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế của nước ta từng bước chuyển hướng phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể là hình thức sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân cũng đã có cơ sở pháp lý để tồn tại và phát triển. Nhằm củng cố hơn nữa sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng tộc…để bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế cảu công dân phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội ở nước ta trong thời kí đổi mới, diện những người thừa kế theo pháp luật đã được Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 quy định rộng rãi hơn. Diện những người thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh thừa kế quy định không những có tất cả những người mà Thông tư số 81 hướng dẫn xác định mà còn bao gồm thêm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bang hệ khác, đó là cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được Pháp lệnh thừa kế về thực chất dựa trên quan điểm mang tính truyền thống về quan hệ gia đình Việt Nam là: “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người đó. Lợi ích của mỗi thành viên trong một gia đình, một dòng tộc luôn được pháp luật của nước ta coi trọng và bảo đảm thực hiện trong mối quan hệ với lợi ích của toàn xã hội, khi mà tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng phong phú về chủng loại và tăng cao về giá trị. Những quan hệ giữa người để lại di sản và những người thuộc phạm vi được thừa kế theo quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống va quan hệ nuôi dưỡng. Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật là người có một hoặc đồng thời hai mối quan hệ với người để lại di sản trong phạm vi ba mối quan hệ trên và được thể hiện cụ thể:
Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Hay người đó có mối quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Hay người đó có mối quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với người thừa kế chỉ là những căn cứ xác định diện những người thừa kế theo pháp luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết thống gần, có quan hệ huyết thống xa (tính theo đời và theo thứ bậc bề trên, bề dưới) với người để lại di sản có thuộc diện hay không thuộc diện thừa kế còn tùy thuộc vào những quy định của pháp luật trong giai đoạn lịch sử khác nhau.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân:
Theo quy định tại khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Tại khoản 2 của Điều luật nói trên còn quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng cho đến thời điểm mở thừa kế phải được xác định là hôn nhân hợp pháp. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và thủ tục pháp luật quy định: về độ tuổi kết hôn, ý chí tự do, tự nguyện kết hôn, tự do thỏa thuận không áp đặt ý chí của một bên đối với bên kia trong kết hôn, không vi phạm quan hệ huyết thống, không vi phạm chế độ một vợ một chồng và không vi phạm các điều cấm khác của pháp luật trong kết hôn như giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, giữa những người cùng giới tính. Người mất năng lực hành vi không được kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng kí và do cơ quan nhà nước có hầm quyền thực hiện theo nghi thức tổ chức đăng kí kết hôn. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau, khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau được bảo vệ bằng pháp luật. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua việc đăng kí kết hôn. Thủ tục đăng kí kết hôn đều được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đang có hiệu lực thi hành.
Tuy nhiên, ngoài việc xác định một quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật thì trong những giai đoạn lịch sử nhất định vẫn cân thiết phải đánh giá đúng mức những quan hệ hôn nhân măc dù không tiến bộ, trái với pháp luật hiên hành nhưng vẫn tồn tại và được thừa nhận ở nước ta như giải pháp giả quyết những tàn dư của chế độ thực dân phong kiến còn sót lại. Để gải quyết vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 690_DS ngày 29/4/1960 hướng dẫn xử lý việc ly hôn và các vấn đề có liên quan đến việc ly hôn vì chế đọ đa thê. Nhằm từng bước xóa bỏ những tàn dư như vậy của chế độ cũ, pháp luật của nhà nước ta đã xác định giới hạn đình chỉ những quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện hành: quan hệ hôn nhân của vợ chồng xác lập trước ngày 13/01/1960 (ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 (ở miền Nam) tuy có vi phạm chế độ một vợ, một chồng nhưng vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. Theo quy định trên, khi chồng chết các người vợ được thừa kế của chồng hoặc khi các người vợ chết trước thì chồng được thừa kế của các người vợ. Một vấn đề nữa được đặt ra là hôn nhân thực tế, hôn nhân thực tế được tòa án thừa nhận cũng được coi là hôn nhân hợp pháp. Vấn đề hôn nhân thực tế được thừa nhận ở nước ta chỉ là một giải pháp tình thế nhằm giải quyết những vấn đề về con chung của vợ chồng, vấn đề tài sản của vợ chồng, vấn đề thừa kế di sản nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của công dân nhất là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em. Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hay con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ. Quan hệ vợ chồng chưa đăng kí mà được xác lập trước ngày 03/01/1987 thì việc đăng kí kết hôn không bị hạn chế về thời gian. Nhưng nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 đến 01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng kí kết hôn theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống:
Pháp luật về hôn nhân và gia đình luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự, theo quy định của pháp luật họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau vì giữa họ với cha đẻ, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống. Cha đẻ, mẹ đẻ của con dù là con trong giá thú hay con ngoài giá thú (về hậu quả pháp lý do pháp luật quy định để có cơ sở xác định con chung của vợ, chồng hay con của người cha, người mẹ không phải là vợ chồng sinh ra đều là những người có quan hệ huyết thống với con) đều có quan hệ huyết thống. Do vậy, cha đẻ, mẹ đẻ, với các con đẻ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Việc xác định cha mẹ là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi người con và là danh dự uy tín của mỗi người trong xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định về quyền xin xác nhận cha, mẹ của con và quyền xin xác nhận con của cha, mẹ là nhằm bảo vệ những quyền dân sự chính đáng của công dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản. Quan hệ huyết thống được xác định giữa cha và con thì lợi ích của người con được bảo đảm trong việc thừa kế tài sản của bố đẻ, khi người bố chết. Xác định quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và các con là việc làm quan trọng. Mục đích của việc xác định quan hệ huyết thống là nhằm bảo vệ những quyền lợi tài sản và lợi ích nhân thân của cá nhân với quan điểm mỗi người sinh ra đều phải có cha, có mẹ là cội nguồn của mối quan hệ ruột thịt, là căn cứ để xác định nghĩa vụ và quyền lợi của các thành viên trong quan hệ gia đình. Việc xác định cha, mẹ, con (xác định huyết thống) không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ gia đình mà còn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa cha, mẹ và các con trong trường hợp một người chết. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, có ba nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Những người có quan hệ huyết thống với người chết thuộc trực hệ (quan hệ huyết thống nghành dọc) bề trên (tôn thuộc) bao gồm: cụ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ, của người để lại di sản.
Nhóm thứ hai: Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc trực hệ bề dưới (ty thuộc) của người để lại di sản bao gồm: các con đẻ (bao gồm cả con trong giá thú, con ngoài giá thú), các cháu nội, cháu ngoại, chắt của người để lại di sản.
Nhóm thứ ba: Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc bàng hệ (quan hệ huyết thống ngành ngang) gồm anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha của người để lại di sản.
Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng:
Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi mình; con có nghĩa vị kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Nếu những người trong quan hệ huyết thống mà vi phạm nghĩa vị theo pháp luật là vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục nhau giữa những người có quan hệ huyết thống là căn cứ vào điều kiện có thể nuôi dưỡng nhưng đã vi phạm. Người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại tài sản đã bị tòa án kết án bằng bản án có giá trị pháp lý, người đó bị tước quyền thừa kế theo pháp luật.
Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa anh, chị, em ruột đối với nhau trong hoàn cảnh mồ côi cha, mẹ hoặc cha, mẹ còn nhưng không có khả năng lao động hoặc đều không có năng lực hành vi dân sự.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại: Ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng, cháu và ông bà còn là người giám hộ đương nhiên của nhau và đồng thời cũng có nghĩa vụ đại diện pháp luật cho nhau. Pháp luật còn quy định, trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, trong trường hợp cháu không có anh, chị, em ruột đã trưởng thành để có thể thực hiện được việc chăm sóc, giáo dục nhau thì ông bà nội, ông bà ngoại có nhiệm vụ nuôi dưỡng cháu. Về phía cháu, cũng có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại. Như vậy, giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau và họ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
Quan hệ giữa cha kế và mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Theo quy định của pháp luật thì giữa người con riêng với cha kế, mẹ kế đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế theo pháp luật của nhau. Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng chung sống với mình và đã thực hiện được nghĩa vụ của người cha, người mẹ đối với con thì theo quy định của pháp luật họ thuộc diện thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, của chồng mà chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế khi qua đời. Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau mà còn được thừa kế theo quy định tại điều 679 và 680 của Bộ Luật Dân sự. Trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng muốn nhận nuôi con nuôi thì phải có sự đồng ý của cả vợ, chồng; nếu chỉ vợ hoặc chồng nhận nuôi con nuôi mà không được người kia đồng ý thì quan hệ cha nuôi, mẹ nuôi không được xác lập. Trong thực tế xảy ra trường hợp nhận nuôi con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và không ghi vào sổ hộ tịch. Con nuôi thực tế và người nuôi có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau trong quan hệ cha, mẹ với con thì họ thuộc diện thừa kế theo háp luật của nhau. Quyền và lợi ích của người con nuôi thực tế với quyền và lợi ích của người làm cha nuôi, mẹ nuôi trong quan hệ thừa kế tài sản của nhau tương tự như cha con, mẹ con. Theo nguyên tắc thì quan hệ giữa con nuôi thực tế với cha nuôi, mẹ nuôi không vi phạm những điều kiện nhận con nuôi mà chỉ vi phạm thủ tục nhận con nuôi thì họ có quan hệ cha con, mẹ con. Con nuôi thực tế được Tòa án thừa nhận.
Đối với chú, bác, cô, dì, cậu ruột của các cháu và các cháu gọi người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột luật không quy định họ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau. Nhưng pháp luật lại quy định họ được thừa kế của nhau theo trình tự hàng. Quy định này dựa trên quan hệ huyết thống giữa cháu với chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người chết và những người gọi người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Tóm lại, diện thừa kế theo pháp luật bao gồm những cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra mà còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế theo huyết thống được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Diện thừa kế không bao gồm người không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
2. Hàng thừa kế theo pháp luật.
Sau khi đã xác định phạm vi những người có quyền thừa kế theo pháp luật dựa trên ba mối quan hệ giữa người thuộc diện thừa kế với người để lại di sản. Di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích của người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân thích đó thì mức độ gần gũi, thân thích của mỗi người đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có cùng một mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng di sản của người đó. Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng d sản của người chết để lại. Như vậy, theo quy định của pháp luật không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được hưởng thừa kế cùng một lúc. Để những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết, pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo trình tự nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật.
Vậy hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Để đảm bảo hơn nữa về quyền thừa kế của mọi chủ thể nói chung và của mọi cá nhân nói riêng